Bản án về ly hôn số 62/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

 BẢN ÁN 62/2022/HNGĐ-ST NGÀY 16/02/2022 VỀ LY HÔN

 Ngày 16 tháng 02 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 143/2021/TLST- HNGĐ ngày 25/3/2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 136/2021/QĐXXST -HNGĐ ngày 28/12/2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2022/QĐST-HNGĐ ngày 21/01/2022 giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Kiều N, sinh năm 1983.

Thường trú: 12/7 Nguyễn Tuân, Phường A, quận G, Thành phố H Tạm trú: 163/24/86 Tô Hiến Thành, phường D, Quận A, Thành phố H.

2. Bị đơn: Ông Lương Vũ Thành Đ, sinh năm 1982 Thường trú: 12/7 Nguyễn Tuân, Phường A, quận G, Thành phố H Tạm trú: 163/24/86 Tô Hiến Thành, phường D, Quận A, Thành phố H.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai nguyên đơn – bà Nguyễn Thị Kiều N trình bày: Bà và ông Lương Vũ Thành Đ tự nguyện chung sống và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 02; quyển số 01/2010 do Ủy ban nhân dân xã Thuận Lợi, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước cấp ngày 12 /01 /2010.

Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn từ năm 2017 do bất đồng quan điểm sống, không phù hợp về tính cách, thường xuyên cãi nhau, chồng bà thường xuyên cá độ đá banh gây nợ nần bà đã bán nhà trả nợ nhưng chồng vẫn không thay đổi tính cách, vẫn tiếp tục cá độ đá banh và nợ nần, vợ chồng không còn quan tâm chăm sóc nhau. Vợ chồng bà đã ly thân không còn chung sống với nhau từ tháng 3/2021 đến nay.

Nay tình cảm vợ chồng đã hết, do đó bà đề nghị Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lương Vũ Thành Đ.

Về con chung: có 02 con chung: tên Lương Vũ Nguyễn H, sinh ngày 26/3/2011 và Lương Vũ Nhất H, sinh ngày 17/11/2016. Bà yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng 02 con chung.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà N không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà N khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Nguyễn Thị Kiều N có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

Bị đơn- ông Lương Vũ Thành Đ đã được Tòa án triệu tập, tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hoà giải; quyết định xét xử và quyết định hoãn phiên tòa nhưng bị đơn không nộp tài liệu, chứng cứ cũng như không có văn bản trình bày ý kiến liên quan đến việc giải quyết vụ án vẫn vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án tiến hành tố tụng và phiên tòa hôm nay.

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 phát biểu quan điểm:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán và Hội đồng xét xử từ giai đoạn thụ lý vụ án đến phiên tòa hôm nay là đã tuân thủ đúng, đầy đủ quy định pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Tại phiên tòa ngày hôm nay, bị đơn vắng mặt đến lần thứ 2 mà không có lý do, nguyên đơn có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định của pháp luật.

Về nội dung: Xét thấy yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ phù hợp với quy định của pháp luật đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào lời khai của đương sự, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết vụ án:

Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn số 02; quyển số 01/2010 do Ủy ban nhân dân xã Thuận Lợi, huyện Đồng Phú, tỉnh Bình Phước cấp ngày 12/01/2010 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa Bà N và ông Đ là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ, nay Bà N yêu cầu ly hôn là tranh chấp “Ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bị đơn – ông Đ cư trú tại Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn theo quy định khoản 1 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

Xét thấy, Tòa án triệu tập hợp lệ bị đơn lần thứ hai, bị đơn vắng mặt, Hội đồng xét xử căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[2] Xét yêu cầu của nguyên đơn:

[2.1] Xét yêu cầu ly hôn của Bà N, Hội đồng xét xử xét thấy :

Căn cứ đơn khởi kiện, bản tự khai và biên bản hòa giải Bà N xác định : Vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn từ năm 2017 do bất đồng quan điểm sống, không phù hợp về tính cách, thường xuyên cãi nhau, không còn quan tâm chăm sóc. Vợ chồng ông đã ly thân không còn chung sống với nhau từ tháng 3/2021 đến nay.

Xét thấy lời trình bày của Bà N về tình trạng mâu thuẫn vợ chồng cũng như quá trình vợ chồng sống ly thân đã lâu giữa Bà N và ông Đ là có thật, phù hợp với chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và với thực tế.

Đồng thời ông Đ đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vẫn vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay, ông Đ vắng mặt đến lần thứ 2 mà không có lý do và cũng không có văn bản trình bày ý kiến của mình về yêu cầu ly hôn của Bà N, chứng tỏ ông Đ không còn tha thiết và quan tâm đến cuộc hôn nhân này.

Vì các lẽ trên, Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa Bà N và ông Đ là lớn, trầm trọng, vợ chồng không còn chung sống đã lâu, hai bên không thể hàn gắn, giải quyết được mâu thuẫn làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không Đ được do đó, yêu cầu ly hôn của Bà N đã thỏa mãn các quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của Bà N.

[2.2] Xét Bà N yêu cầu được trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng hai con chung; Hội đồng xét xử xét thấy tại bản trình bày nguyện vọng trẻ Hoàng trình bày hiện nay đang sinh sống với mẹ và có nguyện vọng được ở với mẹ; điều này đã cho thấy hiện nay ông Đ không trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng trẻ Hoàng. Đối với trẻ Lương Vũ Nhất H, sinh ngày 17/11/2016 năm tuổi còn nhỏ hiện nay đang ở với Bà N.

Xét Bản kê thu nhập của Bệnh viện Chợ Rẫy xác nhận Bà N có thu nhập tháng 09/2021 là 21.902.991 đồng; tháng 10/2021 là 20.825.992 đồng và tháng 11/2021 là 21.071.664 đồng; với mức thu nhập nêu trên Bà N có điều kiện về vật chất để chi phí tối thiểu cho việc nuôi dưỡng và học hành của trẻ Hoàng và trẻ Huy. Căn cứ Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con nên giao con chung Lương Vũ Nguyễn H và Lương Vũ Nhất H cho Bà N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là phù hợp với quy định pháp luật. Do đó, yêu cầu của Bà N giao trẻ Hoàng và trẻ Huy cho bà trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng là có cơ sở để chấp nhận, vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu này của nguyên đơn.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con: Bà N không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con, Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà N khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết; do đó Hội đồng xét xử không xem xét.

[3] Về án phí: Bà N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình theo quy định điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 1 Điều 227 ; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228; Điều 266 và Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84, 85, 86, 110, 116, 117, 118 và điều 119 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1.Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Kiều N.

Về quan hệ vợ chồng: Bà Nguyễn Thị Kiều N được ly hôn ông Lương Vũ Thành Đ.

Về con chung: Giao 02 con chung tên Lương Vũ Nguyễn H, sinh ngày 26/3/2011 và Lương Vũ Nhất H, sinh ngày 17/11/2016 cho bà Nguyễn Thị Kiều N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng.

Ông Lương Vũ Thành Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung mà không ai có quyền cản trở, nhưng ông Đ không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con của người đang trực tiếp nuôi con.

Vì quyền lợi về mọi mặt của con, khi có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luât, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con hoặc hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà N không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con nên Tòa án không xem xét giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà N khai không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không xem xét giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình: Bà Nguyễn Thị Kiều N phải chịu 300.000 (ba trăm ngàn) đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số AA/2019/0050079 ngày 22/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà N đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

3.Về thời hạn kháng cáo : Bà Nguyễn Thị Kiều N và ông Lương Vũ Thành Đ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

331
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 62/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:62/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 10 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 16/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;