Bản án về ly hôn số 59/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BN ÁN 59/2022/HNGĐ-ST NGÀY 25/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 25 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 248/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2021, về việc “Ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 48/2022/QĐST-HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022 giữa:

1. Nguyên đơn: Anh Phạm Văn Q - Sinh năm 1969 Hiện trú tại: Thôn L, xã L, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2.Bị đơn: Chị Vƣơng Thị H – Sinh năm 1969 Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Thôn L, xã L, thành phố C, tỉnh Hải Dương. Hiện đang cư trú tại: Ma - Cao (Trung Quốc). Vắng mặt.

3.Người làm chứng: Anh Phạm Văn H – Sinh năm 1988 Địa chỉ: Thôn L, xã L, TP Ch, tỉnh Hải Dương.

Địa chỉ liên hệ: Số 160 H, phường S, Thành phố C, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, Nguyên đơn anh Phạm Văn Q trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Vương Thị H tổ chức đám cưới ngày 08/6/1987 nhưng không có đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do chị H đi lao động tại Ma Cao – Trung Quốc, thời gian đầu vợ chồng còn liên lạc với nhau nhưng sau đó anh nghi ngờ chị H không chung thủy, anh mong muốn chị H về Việt Nam sinh sống và làm ăn nhưng chị H không về dẫn đến vợ chồng cãi nhau. Năm 2020 vợ chồng anh chấm dứt liên lạc và chặn số điện thoại của nhau, từ đó không ai quan tâm tới ai. Nay anh Q xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn chị H.

Về con chung: Vợ chồng anh có hai con chung là Phạm Văn H – Sinh ngày 20/01/1988 và Phạm Thị Y – sinh ngày 16/10/1990 hiện các con chung đã trưởng thành nên anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng đã tự thỏa thuận giải quyết về tài sản nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại lời khai của anh Phạm Văn H (là con của anh Q, chị H) thể hiện: Mẹ anh là Vương Thị H đang sinh sống và lao động ở Ma - Cao (Trung Quốc), gia đình không biết địa chỉ cụ thể. Nguyên nhân mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa bố, mẹ anh là do không hòa hợp, không có nhiều thời gian gần gũi, chia sẻ với nhau và hơn nữa không có tiếng nói chung trong việc chi tiêu, kinh tế của gia đình dẫn đến cãi nhau. Nay anh bố anh là Phạm Văn Q có đơn ly hôn mẹ anh là Vương Thị H, gia đình đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật. Bản thân anh H cũng thường xuyên liên lạc với mẹ là Vương Thị H qua điện thoại, anh đã thông báo cho mẹ anh biết việc bố anh Phạm Văn Quang khởi kiện ly hôn. Thông qua anh Hưng, chị Vương Thị H có quan điểm xác định tình cảm vợ chồng không còn nên nhất trí yêu cầu khởi kiện. Về con chung không đề nghị Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Chị Vương Thị H đã ủy quyền cho con là anh Phạm Văn H giải quyết về tài sản chung giữa chị H và anh Q, hai bên đã giải quyết xong nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Chị H đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Tòa án xác minh tại địa phương nơi đương sự sinh sống thể hiện: Anh Q, chị H tổ chức cưới theo phong tục tập quán nhưng không đăng ký kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau đến năm 2010 thì chị H đi nước ngoài lao động, do vợ chồng không có nhiều thời gian gần gũi nhau, không có sự hòa hợp về kinh tế gia đình dẫn đến mâu thuẫn. Nay anh Q có đơn khởi kiện, địa phương đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa, anh Q vắng mặt và có đơn đề nghị giữ nguyên đối với yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử (HĐXX) thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS). Đối với các đương sự: Cơ bản thực hiện đúng các quy định của BLTTDS về quyền, nghĩa vụ. Về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật HN&GĐ, Điều 147 BLTTDS; Nghị quyết 326 quy định về mức thu, miễn giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Phạm Văn Q và chị Vương Thị H; Về án phí:Anh Q phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét, quan điểm đại diện Viện kiểm sát, HĐXX nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn anh Phạm Văn Q sinh sống ở Việt Nam, bị đơn chị Vương Thị H có nơi cư trú cuối cùng trước khi xuất cảnh ở xã L, thành phố C, tỉnh Hải Dương, hiện đang lao động tại Ma-Cao (Trung Quốc), không rõ địa chỉ cụ thể. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án, anh Q và gia đình không cung cấp được địa chỉ cụ thể của chị H ở nước ngoài. Tòa án cũng đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật. Mặt khác, anh H là con chị H vẫn thường xuyên liên lạc với chị H nên Tòa án đã tống đạt các văn bản tố tụng để anh Hưng thông báo cho chị H biết. Tại phiên tòa, chị H vắng mặt lần thứ hai và đề nghị giải quyết vắng mặt, anh Quang có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Do vậy, căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Phạm Văn Q và chị Vương Thị H tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán ngày 08/6/1987 nhưng không có đăng ký kết hôn theo quy định. Sau khi cưới, anh chị chung sống với nhau đến năm 2010 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do không có sự hòa hợp trong cuộc sống cũng như trong việc làm ăn, chi tiêu kinh tế gia đình, không có sự quan tâm, tin tưởng lẫn nhau mà thường nghi ngờ nhau. Từ năm 2020 cho đến nay anh Q và chị H đã chấm dứt liên lạc, chặn số điện thoại của nhau và không còn quan tâm tới nhau. Thông qua gia đình, chị H thông tin và xác định không còn tình cảm với anh Q nên nhất trí yêu cầu khởi kiện của anh Qu. HĐXX xét thấy mâu thuẫn trong quan hệ hôn nhân giữa anh Q và chị Hà đã trầm trọng và được chứng minh qua lời khai của các đương sự, đại diện gia đình và chính quyền địa phương nơi các đương sự sinh sống. Tuy nhiên, do anh Q và chị H không có đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng nên theo quy định tại Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình, HĐXX cần tuyên bố không công nhận là vợ chồng giữa anh Phạm Văn Quang và chị Vương Thị Hà.

[2.2] Về quan hệ nuôi con: Anh Q và chị H có hai con chung là Phạm Văn H – Sinh ngày 20/01/1988 và Phạm Thị Y – sinh ngày 16/10/1990 hiện các con chung đã trưởng thành, nên anh Q, chị H không đề nghị Tòa án giải quyết. Do vậy, HĐXX không xem xét giải quyết.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Anh Phạm Văn Q và chị Vương Thị H đã tự thống nhất thỏa thuận giải quyết xong về tài sản nên không đề nghị Tòa án giải quyết. Do vậy, HĐXX không đặt ra giải quyết.

[3]. Về án phí: Nguyên đơn anh Phạm Văn Q phải chịu án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự, điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 9, khoản 1 Điều 14, khoản 2 Điều 53 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận là vợ chồng giữa anh Phạm Văn Q và chị Vương Thị H.

2. Về án phí: Anh Phạm Văn Q phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm (về Hôn nhân gia đình) và được đối trừ số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2020/0004633 ngày 17 tháng 12 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương.

3. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

150
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 59/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:59/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;