Bản án về ly hôn số 56/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 56/2022/HNGĐ-ST NGÀY 30/05/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 5 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số: 439/2021/TLST- HNGĐ, ngày 06 tháng 12 năm 2021 về việc “ Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2022/QĐXX - ST ngày 18 tháng 4 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: chị Trương Ngọc A; sinh năm 1999 (vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 6, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước.

- Bị đơn: anh Nguyễn T; sinh năm 1995(vắng mặt) Địa chỉ: Thôn 3, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện ngày 22/11/2021 và trong quá trình thụ lý vụ án, nguyên đơn chị Trương Ngọc A trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn T tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2020, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 70, ngày 10/10/2020. Quá trình chung sống không hạnh phúc, anh T chơi bời, không chăm lo cuộc sống gia đình, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, chị có khuyên bảo nhiều lần nhưng anh T không thay đổi, chị và anh T đã sống ly thân, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị và anh T có 01 người con chung, họ tên là Trương Gia Tuệ N, sinh ngày 16/5/2021. Sau khi ly hôn chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nhi.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu giải quyết.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có. Không yêu cầu giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn T vắng mặt trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng: Về thủ tục tố tụng: Không có ý kiến gì. Về nội dung vụ án: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Chị A được ly hôn với anh T. Về con chung: Giao cháu Trương Gia Tuệ N, sinh ngày 16/5/2021 cho Chị A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Về cấp dưỡng, tài sản và nợ: Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Sau khi nghiên cứu các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, căn cứ vào lời khai của các đương sự và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Theo đơn khởi kiện của chị Trương Ngọc A yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn T có đăng ký hộ khẩu cư trú tại thôn 3, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước; Chị A và anh T chung sống có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước. Hội đồng xét xử nhận thấy đây là quan hệ tranh chấp về ly hôn. Căn cứ Điều 28; Điều 35; Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự. Xác định vụ án hôn nhân gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.

Nguyên đơn Chị A vắng mặt tại phiên tòa và có văn bản đề nghị giải quyết vắng mặt. Bị đơn anh T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định pháp luật nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vụ án theo quy định pháp luật.

[2]. Xét về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trương Ngọc A yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn T, Hội đồng xét xử xét thấy:

Chị A và anh T tự nguyên chung sống có đăng ký kết hôn theo quy định pháp luật. Trong thời gian chung sống do vợ chồng không có sự hòa hợp, nảy sinh mâu thuẫn, xảy ra cải vã, anh chị cũng đã sống ly thân một khoảng thời gian, sự việc này cũng đã được đại diện ban quản lý thôn và chính quyền địa phương nơi Chị A và anh T cư trú xác nhận. Trong thời gian sống ly thân Chị A và anh T không có sự chăm sóc, chia sẻ cho nhau, dẫn đến hôn nhân không đạt được mục đích. Như vậy, Chị A và anh T đã có sự vi phạm về nghĩa vụ của người vợ, người chồng đối với nhau; cụ thể: không còn sự thương yêu, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ, chung sống với nhau. Đối chiếu với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014, xét thấy hôn nhân giữa Chị A và anh T lâm vào tình trạng trầm trọng, hôn nhân không đạt được mục đích, nay Chị A yêu cầu ly hôn với anh T. Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu ly hôn của nguyên đơn Vy là có căn cứ nên cần chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị A và anh T có 01 người con chung, họ tên Trương Gia Tuệ N, sinh ngày 16/5/2021. Sau khi ly hôn Chị A có nguyện vọng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục cháu N. Xét thấy, hiện nay cháu N còn nhỏ, cần có sự trông nom, chăm sóc chu đáo từ người mẹ, mặt khác từ khi Chị A và anh T sống ly thân thì Chị A là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Nhi. Vì vậy, cần giao cháu Trương Gia Tuệ N, sinh ngày 16/5/2021 cho chị Trương Ngọc A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp.

[4]Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết.

[6] Về án phí: Đương sự phải chịu theo luật định.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bù Đăng tại phiên tòa là phù hợp với quy định của pháp luật và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên cần chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51; Điều 56; Điều 81,82,83,84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

- Căn cứ vào Điều 28; Điều 35Điều 147; Điều 131 Điều 266 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án ngày 30/12/2016.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trương Ngọc A. Chị Trương Ngọc A được ly hôn với anh Nguyễn T.

Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 70, ngày 10/10/2020 của Ủy ban nhân dân xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước không còn hiệu lực khi Bản án hôn nhân gia đình về việc ly hôn của anh chị có hiệu lực pháp luật.

2.Về con chung: Giao cháu Trương Gia Tuệ N, sinh ngày 16/5/2021cho chị Trương Ngọc A trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom hoặc cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Các bên có quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con theo quy định của pháp luật.

3.Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.

4. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

5. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Nguyên đơn chị Trương Ngọc A phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà nguyên đơn đã nộp trước là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0000172 ngày 06/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

111
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 56/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:56/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/05/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;