Bản án về ly hôn số 52/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 52/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 15 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 32/2022/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2022, về việc “Ly hôn”. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2022, giữa:

1. Nguyên đơn: Chị Phạm Hải G, sinh năm 1996.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Số 8/17 phố K, phường H, thành phố D, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú hiện nay: Disponentvagen 4, Lgh 1706, 435 35, molnlycke, Thụy Điển.

Người được chị G ủy quyền về việc giao, nhận văn bản tố tụng của Tòa án: Ông Phạm Ngọc D, sinh năm 1971.

Địa chỉ: Số 4/18 Q, phường P, thành phố D, tỉnh Hải Dương. Theo giấy ủy quyền ngày 14/12/2021 đã được Đại sứ quán CHXHCN Việt Nam tại Vương Quốc Thụy Điển chứng thực.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Minh Đ, sinh năm 1997.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Số 8/17 phố K, phường H, thành phố D, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú hiện nay: Fosievagen 55, 214 31, Maimo, Thụy Điển.

Người được anh Đ ủy quyền về việc giao, nhận văn bản tố tụng của Tòa án: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm 1957.

Địa chỉ: Số 26 M, phường H, thành phố D, tỉnh Hải Dương. Theo giấy ủy quyền ngày 29/11/2021 đã được Đại sứ quán CHXHCN Việt Nam tại Vương Quốc Thụy Điển chứng thực.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, nguyên đơn chị Phạm Hải G trình bày: Chị và anh Nguyễn Minh Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường H, thành phố D, tỉnh Hải Dương vào ngày 22/6/2018. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau được khoảng một năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng trong quan điểm sống và đã sống ly thân từ lâu, không ai quan tâm đến ai. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Nguyễn Minh Đ.

Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Chị G xác định vợ chồng không có con chung, không có tài sản chung và không có nợ chung nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hiện chị G đang lao động tại Thụy Điển nên chị ủy quyền cho bác ruột là ông Phạm Ngọc D thay chị giao, nhận các văn bản, tài liệu tại Tòa án, đồng thời đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt.

Người được chị G ủy quyền về việc giao, nhận văn bản tại Tòa án - Ông Phạm Ngọc D trình bày: Ông nhất trí nhận ủy quyền của chị G, sau khi nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án, ông đã thông báo cho chị G biết, chị G vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

- Tại bản tự khai, đơn xin vắng mặt và giấy ủy quyền - Bị đơn anh Nguyễn Minh Đ trình bày: Anh và chị Phạm Hải G có quan hệ hôn nhân như chị G trình bày là đúng. Vợ chồng chung sống với nhau được khoảng một năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau nên không quan tâm đến nhau. Thực tế anh chị đã sống ly thân từ lâu. Nay, anh xác định vợ chồng không có khả năng đoàn tụ, chị G có đơn xin ly hôn, anh cũng nhất trí ly hôn và đề nghị được giải quyết vắng mặt.

Về con chung, tài sản chung và nợ chung: Anh xác định vợ chồng không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Hiện anh đang lao động tại Thụy Điển nên anh ủy quyền cho bố đẻ là ông Nguyễn Thanh T thay anh giao, nhận các văn bản, tài liệu tại Tòa án.

Người được anh Đ ủy quyền về việc giao, nhận các văn bản tại Tòa án - Ông Nguyễn Thanh T trình bày: Ông nhất trí nhận ủy quyền của anh Đ. Sau khi nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án, ông đã thông báo cho anh Đ biết, anh Đ vẫn giữ nguyên quan điểm như đã trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật:Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử và các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về việc giải quyết vụ án. Đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án: Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Hải G ly hôn anh Nguyễn Minh Đ. Về con chung, tài sản chung, nợ chung: Không có nên không xem xét. Về án phí: Chị G phải chịu án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Nguyên đơn chị Phạm Hải G và bị đơn anh Nguyễn Minh Đ có địa chỉ trước khi xuất cảnh ở số 8/17 phố K, phường H, thành phố D, tỉnh Hải Dương, hiện anh, chị đang sinh sống và làm việc tại Thụy Điển. Do vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền. Mặc dù, chị G và anh Đ không về Việt Nam tham gia tố tụng nhưng anh, chị đã gửi các tài liệu gồm: Đơn xin ly hôn, bản tự khai, đơn xin vắng mặt và giấy ủy quyền, các tài liệu này đã được Đại sứ quán CHXHCN Việt Nam tại Vương Quốc Thụy Điển chứng thực. Do vậy có đủ cơ sở xác định ý chí, quan điểm ly hôn của chị G, anh Đ là hoàn toàn tự nguyện. Chị G, anh Đ đều có đơn đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt nên căn cứ vào khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định của pháp luật.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Hải G và anh Nguyễn Minh Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường H, thành phố D, tỉnh Hải Dương vào ngày 22/6/2018 nên Hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau được một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính tình không hợp, vợ chồng không có sự quan tâm đến nhau và đã sống ly thân. Nay, chị G và anh Đ đều xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị G có đơn xin ly hôn, anh Đ nhất trí. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị G và anh Đ đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị G được ly hôn anh Đ.

[2.2] Về quan hệ con chung, tài sản chung và nợ chung: Chị G và anh Đ không có con chung, không có tài sản chung và nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[3]. Về án phí: Chị Phạm Hải G phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì những lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Phạm Hải G.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phạm Hải G ly hôn anh Nguyễn Minh Đ.

2. Về quan hệ con chung, tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết.

3. Về án phí: Chị Phạm Hải G phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được đối trừ 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí đã nộp, theo biên lai thu số AA/2020/0004962 ngày 02 tháng 3 năm 2022 của Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị G đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm (do ông Phạm Ngọc D nộp thay).

4. Về quyền kháng cáo: Chị Phạm Hải G và anh Nguyễn Minh Đ được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

86
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 52/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:52/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;