Bản án về ly hôn số 52/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LÂM HÀ, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 52/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/06/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 6 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Lâm Hà xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 62/2022/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 03 năm 2022 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 50/2022/QĐXXST – HNGĐ ngày 20 tháng 5 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 21/2022/QĐST – HNGĐ ngày 26/5/2022; quyết định hoãn phiên tòa số 24/2022/QĐST – HNGĐ ngày 08/6/2022 của Tòa án Lâm Hà giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: chị Bạch Thị Hồng T, sinh năm:1999.

Địa chỉ: thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

2. Bị đơn: anh Nguyễn Trung H, sinh năm: 1999.

Địa chỉ: thôn T, xã T, huyện L, tỉnh Lâm Đồng.

(chị T có mặt, anh H vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn và bản tự khai nguyên đơn chị Bạch Thị Hồng T trình bày: chị và anh H xây dựng gia đình với nhau năm 2019, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn do anh H ham vui với bạn bè mà không quan tâm chăm sóc gia đình, lại không chung thủy nên vợ chồng thường hay cãi nhau. Theo thời gian mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, chị T đã về nhà bố mẹ đẻ sống từ đầu năm 2022 và vợ chồng đã sống ly thân từ đó đến nay. Vì vậy chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H vì vợ chồng không thể tiếp tục chung sống với nhau. Về con chung, chị T xác định vợ chồng có một con chung là Nguyễn Gia H, sinh ngày 13/12/2019. Khi ly hôn chị T đề nghị giao con cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục; không yêu cầu anh H phải cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và nợ chung chị T xác định không có nên không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết. Ngoài ra, chị T không còn yêu cầu gì khác.

Bị đơn anh Nguyễn Trung H trình bày: vợ chồng anh kết hôn với nhau ngày 04/7/2019 có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Văn. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được một năm thì phát sinh mâu thuẫn không thể cải thiện được nên anh yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn. Về con chung, anh H xác định có một cháu là Nguyễn Gia H, sinh ngày 13/12/2019, khi ly hôn anh H đồng ý giao con cho chị T nuôi dưỡng và anh H sẽ có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.000.000đồng, đồng thời anh H yêu cầu được đưa đón con vào cuối tuần. Về tài sản chung, nợ chung thì anh H xác định không có và không yêu cầu gì.

Tòa án đã tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng anh H vắng mặt không có lý do nên Tòa án không tiến hành hòa giải được. Tòa án đã thông báo kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận, công khai chứng cứ cho anh H nhưng anh H không có ý kiến phản hồi gởi cho Tòa án. Tuy nhiên, qua xác minh thực tế tại gia đình và địa phương thì được biết vợ chồng anh H và chị T phát sinh mâu thuẫn và vợ chồng đã sống ly thân từ cuối năm 2021 đến nay.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Lâm Hà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng cũng như phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án theo hướng đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận đơn yêu cầu ly hôn của chị Bạch Thị Hồng T, xử cho chị T được ly hôn với anh H. Về con chung: giao con là Nguyễn Gia H, sinh ngày 13/12/2019 cho chị T trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Về việc cấp dưỡng nuôi con do chị T không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản chung và nợ chung các đương sự xác định không có và không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết nên không đặt ra xem xét giải quyết. Về án phí, buộc chị T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận của đương sự cũng như ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về thủ tục tố tụng: bị đơn anh Nguyễn Trung H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa lần thứ ba nhưng vắng mặt không có lý do và không thuộc trường hợp bất khả kháng nên căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227; khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh H theo thủ tục chung là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân: chị T và anh H xây dựng gia đình với nhau vào năm 2019, trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Tân Văn, huyện Lâm Hà, tỉnh Lâm Đồng vào ngày 19/6/2019. Việc đăng ký kết hôn không vi phạm các điều kiện cấm kết hôn theo quy định của luật hôn nhân và gia đình nên quan hệ hôn nhân của chị T và anh H là hợp pháp. Tuy nhiên, cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc nên chị T làm đơn khởi kiện ly hôn. Xét thấy, vợ chồng chị T và anh H phát sinh mâu thuẫn là do vợ chồng còn trẻ không có sự chia sẻ với nhau trong cuộc sống, anh H vẫn còn ham vui với bạn bè tH sự quan tâm, chăm sóc gia đình; còn chị T thì xử sự tH kiềm chế nên mỗi khi vợ chồng xảy ra bất hòa lại bỏ về nhà bên ngoại nên mâu thuẫn vợ chồng khó có khả năng cải thiện. Do đó, từ cuối năm 2021 đến nay hai vợ chồng đã sống ly thân không còn sự quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Mặt khác, bản thân anh H cũng không có thiện chí nhằm cải thiện quan hệ hôn nhân của hai anh chị, cụ thể là từ khi Tòa án thụ lý vụ án đến nay, Tòa án đã triệu tập hợp lệ các đương sự để tiến hành hòa giải nhưng anh H đều vắng mặt không có lý do. Vì vậy, nếu kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện nay cũng không mang lại hạnh phúc cho các đương sự do mâu thuẫn vợ chồng đã kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, cần chấp nhận đơn xin ly hôn của chị T, xử cho chị Bạch Thị Hồng T và anh Nguyễn Trung H được ly hôn là hoàn toàn phù hợp.

[3] Về con chung: chị T và anh H có một con chung là Nguyễn Gia H, sinh ngày 13/12/2019. Khi ly hôn chị T yêu cầu được nuôi con và anh H cũng đồng ý. Xét thấy, cháu Gia Huy còn nhỏ cần sự chăm sóc của mẹ nhiều hơn, đồng thời kể từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay thì cháu Huy vẫn sống cùng với mẹ. Vì vậy, để đảm bảo điều kiện học tập và sinh hoạt ổn định cho cháu, căn cứ khoản 3 Điều 81 luật hôn nhân và gia đình, giao con cho chị T có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp. Về việc cấp dưỡng nuôi con do chị T không yêu cầu nên không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: chị T và anh H xác định không có tài sản chung và nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vì vậy, Hội đồng xét xử không có cơ sở đặt ra để xem xét trong vụ án này.

[5] Về án phí: Buộc chị Bạch Thị Hồng T phải chịu 300.000đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 53; khoản 1 Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83; Điều 84; của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 147; Điều 203; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và Điều 266 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Xử :

1. Chấp nhận đơn xin ly hôn của chị Bạch Thị Hồng T, xử cho chị Bạch Thị Hồng T và anh Nguyễn Trung H được ly hôn.

2. Về con chung: giao con là Nguyễn Gia H, sinh ngày 13/12/2019 cho chị Bạch Thị Hồng T có trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục. Anh Nguyễn Trung H không phải cấp dưỡng nuôi con.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: chị Bạch Thị Hồng T phải chịu 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị T đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0002981 ngày 03 tháng 3 năm 2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Lâm Hà, chị T đã nộp đủ án phí.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án Dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án Dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án Dân sự”.

Báo cho chị Bạch Thị Hồng T biết có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 14/6/2022). Riêng anh Nguyễn Trung H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

116
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 52/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:52/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lâm Hà - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;