Bản án về ly hôn số 52/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HOÁ - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 52/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 139/2022/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 01 năm 2022 về “Ly hôn" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 86/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 01 tháng 4 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Vũ Thị T, sinh năm 1977.

Địa chỉ: Thôn 4, phường Quảng C, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn V, sinh năm 1974.

Địa chỉ: Thôn 4, phường Quảng C, thành phố T, tỉnh Thanh Hóa.

Tại phiên tòa có mặt chị T, vắng mặt anh V.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22/12/2021, bản tự khai ngày 05/01/2022, quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Vũ Thị T trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn V tự nguyện tìm hiểu, yêu thương nhau và chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2000, có tổ chức cưới theo phong tục địa phương nhưng không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi cưới vợ chồng chị chung sống với nhau hạnh phúc đến năm 2018 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình giữa chị và anh V không hợp nhau, bất đồng quan điểm sống dẫn đến thường xuyên cãi nhau. Mâu thuẫn căng thẳng nhất từ năm 2021, chị đã chuyển ra thuê nhà trọ để sinh sống, anh chị đã sống ly thân nhau từ đó cho đến nay không còn quan tâm đến nhau. Nay chị T xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được vì vậy chị T đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh V. Do vợ chồng chị không đăng ký kết hôn nên chị yêu cầu Tòa án không công nhận chị và anh V là vợ chồng.

Về con chung: Chị và anh V có hai con chung là cháu Nguyễn Công N, sinh ngày 11/01/2002 và cháu Nguyễn Công C, sinh ngày 15/02/2004. Hiện nay cả hai con chung đều đã thành niên, khỏe mạnh bình thường nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.

Về tài sản, công nợ chung: Chị T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại biên bản lấy lời khai ngày 26/01/2022 và biên bản lấy lời khai ngày 11/3/2022, bị đơn là anh Nguyễn Văn V trình bày: Anh và chị Vũ Thị T chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2000, có tổ chức cưới theo phong tục địa phương nhưng không đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận đến khoảng năm 2008 thì chị T bỏ đi làm ăn, không quan tâm đến gia đình, mâu thuẫn vợ chồng nảy sinh từ đó, vợ chồng không có tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống. Nay chị T đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn, không công nhận vợ chồng, anh thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn nên anh không đồng ý ly hôn. Về con chung: Vợ chồng anh có hai con chung như chị T trình bày. Hiện nay các con đều đã thành niên và khỏe mạnh bình thường nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung; về tài sản, công nợ chung: anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Thu thập chứng cứ tại địa phương phản ánh: Chị T và anh V chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2000 nhưng không có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống tại địa phương có xảy ra mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn của anh chị chính quyền địa phương không nắm được. Nay chị T làm đơn khởi kiện ly hôn anh V thì đề nghị Tòa án giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật. Chị T và anh V có hai con chung nhưng hiện nay các cháu đều đã thành niên. Về tài sản, công nợ chung của anh chị địa phương không nắm được.

Tại phiên tòa, chị T giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Trong quá trình giải quyết vụ án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký và nguyên đơn đã tuân thủ thủ đúng quy định của pháp luật. Bị đơn mặc dù đã được tống đạt hợp lệ Giấy triệu tập, Thông báo về phiên họp kiểm khai việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải nhưng vắng mặt tại Tòa án để làm bản tự khai và tham gia phiên họp là chưa thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của bị đơn theo quy định của pháp luật. Về yêu cầu khởi kiện, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 9, 14, 53 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về thẩm quyền: Đây là tranh chấp ly hôn và bị đơn có nơi cư trú tại thành phố Thanh Hóa. Vì vậy việc Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa thụ lý, giải quyết là đúng quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]. Về tố tụng: Bị đơn là anh Nguyễn Văn V đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa, do vậy Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt đối với anh V.

[2]. Về hôn nhân: Chị Vũ Thị T và anh Nguyễn Văn V tự do tìm hiểu, tự nguyện về chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 2000 cho đến nay nhưng chưa đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật Việt Nam. Như vậy hôn nhân giữa chị Vũ Thị T và anh Nguyễn Văn V không được pháp luật thừa nhận. Mặc dù anh chị khai chưa thống nhất với nhau về thời gian vợ chồng phát sinh mâu thuẫn nhưng cả hai đều thừa nhận sau khi cưới anh chị chung sống với nhau được một thời gian dài thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình giữa anh chị không hợp, bất đồng quan điểm sống dẫn đến thường xuyên cãi nhau. Mâu thuẫn căng thẳng nhất từ năm 2021, anh chị đã sống ly thân nhau từ đó cho đến nay. Nay chị T xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh V, do chị và anh V không đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên chị đề nghị Tòa án không công nhận chị và anh V là vợ chồng, còn anh V không đồng ý ly hôn. Quá trình xác minh tại địa phương thể hiện, chị T và anh V chung sống với nhau như vợ chồng nhưng không có đăng ký kết hôn, cuộc sống vợ chồng giữa chị T và anh V có xảy ra mâu thuẫn. Như vậy có thể khẳng định mâu thuẫn giữa chị T và anh V đã trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, anh chị có quay về đoàn tụ thì cuộc sống cũng không hạnh phúc. Xét thấy yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 9, Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Vũ Thị và anh Nguyễn Văn V.

[4]. Về con chung: Chị Vũ Thị T và anh Nguyễn Văn V có hai con chung là cháu Nguyễn Công N, sinh ngày 11/01/2002 và cháu Nguyễn Công C, sinh ngày 15/02/2004. Hiện nay cả hai con chung đều đã thành niên, khỏe mạnh bình thường nên anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét.

 [5]. Về tài sản, công nợ chung: Chị T và anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

  [6]. Về án phí: Chị T phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự và điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên:

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271, khoản 1 điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 9, Điều 14, khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Vũ Thị T và anh Nguyễn Văn V.

Về con chung: Chị Vũ Thị T và anh Nguyễn Văn V có hai con chung là cháu Nguyễn Công N, sinh ngày 11/01/2002 và cháu Nguyễn Công C, sinh ngày 15/02/2004. Hiện nay cả hai con chung đều đã thành niên nên anh chị không yêu cầu Tòa án giải quyết về con chung.

Về tài sản, công nợ chung: Chị Tvà anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Chị Vũ Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng Chị Vũ Thị T đã nộp theo biên lai số AA/2021/0001582 ngày 31/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự Thành phố Thanh Hóa (chị T đã nộp đủ án phí).

Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

225
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 52/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:52/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;