Bản án về ly hôn số 49/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN QUỲNH PHỤ, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 49/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/07/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 72/2022/TLST–HNGĐ ngày 15 tháng 4 năm 2022 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 46/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Phan Thị Thùy L, sinh năm 1994.

Địa chỉ: Số Z, V, khu 13, phường H, thành phố D, tỉnh Hải Dương.

Bị đơn: Anh Nguyễn Hữu Qu, sinh năm 1990.

Địa chỉ: Thôn T, xã Q1, huyện Q, tỉnh Thái Bình.

(Tại phiên tòa có mặt các đương sự)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện được bổ sung bằng biên bản ghi lời khai, nguyên đơn là chị Phan Thị Thùy L trình bày: Chị và anh Nguyễn Hữu Qu tự do, tự nguyện tìm hiểu kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Q1vào ngày 02/3/2016. Sau khi kết hôn cả hai đều sinh sống tại Hải Dương và lao động tự do. Trong quá trình chung sống do vợ chồng tính tình không hợp đã dẫn đến phát sinh mâu thuẫn. Tháng 02/2021 mâu thuẫn căng thẳng, vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị xin được ly hôn anh Qu.

Về con chung: Chị L khai vợ chồng có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Linh Đ, sinh ngày 12/11/2020, hiện sống cùng chị. Chị L đề nghị được được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung: Chị L khai vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn là anh Nguyễn Hữu Qu trình bày: Anh xác nhận lời khai của chị L về điều kiện kết hôn, thời gian chung sống của vợ chồng cũng như nguyên nhân mâu thuẫn. Anh đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng trở về đoàn tụ, nếu chị L không nhất trí thì anh đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật, bản thân anh không mong muốn ly hôn.

Về con chung: Anh Qu xác nhận vợ chồng có 01 con chung như chị L đã khai. Nếu ly hôn xảy ra do con chung dưới 36 tháng tuổi, vì vậy anh đề nghị giao con chung cho chị L nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật.

Về tài sản chung: Anh Qu khai vợ chồng không có tài sản chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình tại phiên tòa phát biểu ý kiến: Hồ sơ vụ án từ giai đoạn thụ lý vụ án đến khi xét xử, Thẩm phán thụ lý giải quyết vụ án đã lập và thu thập đầy đủ các tài liệu và chứng cứ, tuân thủ đúng trình tự luật định. Tại phiên tòa việc xét xử vụ án, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ theo đúng trình tự pháp luật. Đối với nguyên đơn và bị đơn trong giai đoạn tố tụng và tại phiên tòa đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự, Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTV QH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị L được ly hôn anh Qu. Về con chung: Xử giao con chung Nguyễn Ngọc Linh Đ, sinh ngày 12/11/2020 cho chị L được trực tiếp nuôi dưỡng, chị L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy không đặt ra giải quyết. Chị L phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả thẩm vấn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]Về tố tụng: Bị đơn có nơi cư trú tại thôn T, xã Q1, huyện Q, tỉnh Thái Bình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Quỳnh Phụ, tỉnh Thái Bình theo quy định tại Điều 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2]Về hôn nhân: Hôn nhân giữa chị Phan Thị Thùy L và anh Nguyễn Hữu Qu được xác lập trên cơ sở tự do, tự nguyện tìm hiểu kết hôn có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Q1vào ngày 02/3/2016 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn cả hai đều sinh sống tại Hải Dương và lao động tự do, trong quá trình chung sống do vợ chồng tính tình không hợp, bất đồng quan điểm sống đã dẫn đến phát sinh mâu thuẫn. Tháng 02/2021 mâu thuẫn căng thẳng, hai bên đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, chị L làm đơn khởi kiện đề nghị xin được ly hôn anh Qu. Anh Qu đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng trở về đoàn tụ, nếu chị L không thiện chí trở về đoàn tụ thì anh đề nghị giải quyết yêu cầu ly hôn của chị L theo quy định của pháp luật. Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Tòa án đã hòa giải hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng, để hai bên có cơ hội trở về đoàn tụ, nhưng chị L vẫn giữ nguyên quan điểm. Qua xác minh lời khai bà Đặng Thị Th là mẹ đẻ chị L và ông Ngô Duy D1là trưởng thôn T và bà Nguyễn Thị M là công chức Tư pháp xã Q1đều xác nhận cuộc sống vợ chồng giữa chị L và anh Qu đã phát sinh mâu thuẫn, hai bên đã sống ly thân thời gian dài không còn quan tâm đến nhau. Quan điểm của bà Th, ông D1và bà M đều đề nghị Tòa án căn cứ vào thực trạng hôn nhân để giải cho chị L được ly hôn anh Qu. Điều đó chứng tỏ cuộc sống tình cảm vợ chồng giữa chị L và anh Qu đã mâu thuẫn trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài, cần căn cứ vào Điều 51 và 56 Luật Hôn nhân và gia đình xử cho chị L được ly hôn anh Qu là có căn cứ.

[3]Về con chung: Xét yêu cầu của các bên về nuôi dưỡng con chung cho thấy chị L và anh Qu có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Linh Đ, sinh ngày 12/11/2020, con chung hiện dưới 36 tháng tuổi được chị L trực tiếp nuôi dưỡng chu đáo kể từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay, hiện tại chị L làm công nhân có thu nhập ổn định trên 10 triệu đồng/1 tháng, có điều kiện chăm sóc con chung. Vì vậy cần giao con chung cho chị L được trực tiếp nuôi dưỡng, chị L không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp với Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4]Về tài sản chung: Chị L và anh Qu không yêu cầu Tòa án giải quyết, vì vậy về tài sản chung Tòa án không xét.

[5]Về án phí và lệ phí tòa án: Chị L phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[6] Về quyền kháng cáo: Chị L và anh Qu có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1/Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Phan Thị Thùy L được ly hôn anh Nguyễn Hữu Qu.

2/Về con chung: Xử giao con chung Nguyễn Ngọc Linh Đ, sinh ngày 12/11/2020 cho chị L được trực tiếp nuôi dưỡng. Chị L không yêu cầu anh Qu cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh Qu có quyền đi lại thăm nom con chung.

3/Về tài sản chung: Chị L và anh Qu Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4/Về án phí: Chị L phải chịu 300.000đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền chị L đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí số 0004667 ngày 15/4/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Quỳnh Phụ thành tiền án phí.

5/Về quyền kháng cáo: Chị L và anh Qu có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày tròn kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

25
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 49/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:49/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Quỳnh Phụ - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;