Bản án về ly hôn số 46/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN HIỆP, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 46/2021/HNGĐ-ST NGÀY 12/07/2021 VỀ LY HÔN

Trong ngày 12 tháng 07 năm 2021. Tại trụ sở Tòa án Nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 99/2021/TLST- HNGĐ ngày 04 tháng 05 năm 2021 về vụ kiện: “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 36/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 04 tháng 06 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Ngô Thị H, sinh năm 1990 (có mặt).

Địa chỉ: số 409, ấp P H, xã T H, huyện T H, tỉnh Kiên Giang

- Bị Đơn: Anh Nguyễn Phú Q, sinh năm 1986 (vắng mặt).

Địa chỉ: số 409, ấp P H, xã T H, huyện T H, tỉnh Kiên Giang

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa chị Ngô Thị H trình bày: tôi và anh Nguyễn Phú Q chung sống với nhau vào ngày 19/10/2008, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã T H, huyện T H, tỉnh Kiên Giang vào ngày 31/10/2008. Trước khi chung sống vợ chồng có tìm hiểu nhau trước khoảng 02 tháng mới tiến tới hôn nhân, hôn nhân tự nguyện, không bị cưỡng ép.

Quá trình vợ chồng chung sống lúc đầu có hạnh phúc, nhưng đến năm 2019 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do anh Q thường xuyên đi tìm thú vui với người phụ nữ khác bên ngoài, về đến nhà thì vợ chồng thường xuyên cãi nhau, thậm chí anh Q còn đánh đập tôi, tôi có khuyên anh Q nhiều lần nhưng anh Q vẫn không thay đổi. Từ đó vợ chồng bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, có lối sống không phù hợp. Tôi xét thấy vợ chồng không thể chung sống với nhau được nữa, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Chúng tôi đã sống ly thân từ tháng 07 năm 2019 cho đến nay.

Quá trình chung sống vợ chồng có 02 con chung gồm:

1/ Cháu Nguyễn Phú T, sinh ngày 25/08/2008.

2/ Cháu Nguyễn Thị Mỹ D, sinh ngày 31/12/2013 Hiện nay hai cháu đang chung sống với tôi.

- Về tài sản chung: quá trình chung sống vợ chồng không tạo lập được tài sản chung.

- Về phần nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

Tại phiên tòa chị H yêu cầu:

Về quan hệ hôn nhân: tôi xin được ly hôn với anh Nguyễn Phú Q. Về quan hệ con chung: Tôi xin nhận nuôi cháu Nguyễn Phú T, sinh ngày 25/08/2008 và cháu Nguyễn Thị Mỹ D, sinh ngày 31/12/2013. Tôi yêu cầu cấp dưỡng cho cháu T 1.000.000đ/01 tháng và cháu D 1.000.000đ/01 tháng cho đến khi cháu T và cháu D đủ 18 tuổi.

Về quan hệ tài sản chung: không có, không yêu cầu giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết.

* Bị đơn anh Nguyễn Phú Q trình bày: Tòa án đã tống đạt các văn bản cho anh Nguyễn Phú Q theo quy định của pháp luật nhưng tại phiên tòa hôm nay anh Q vẫn vắng mặt không lý do.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ kiện Ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 BLTTDS năm 2015. Mặt khác đây là vụ kiện Ly hôn không có yếu tố nước ngoài nên thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân cấp huyện theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 BLTTDS năm 2015. Ngoài ra Tòa án nhân dân huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang có thẩm quyền giải quyết theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 39 BLTTDS năm 2015.

[2] Về thủ tục tố tụng: anh Nguyễn Phú Q với tư cách là bị đơn. Tại phiên tòa hôm nay anh Q vắng mặt không lý do, trước đó Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa cho bị đơn anh Nguyễn Phú Q, theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định: “Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà bị đơn không có yêu cầu phản tố vắng mặt thì Tòa án tiến hành xử vắng mặt họ”. Do đó Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Q là phù hợp theo quy định pháp luật.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Xét lời yêu cầu của chị Ngô Thị H về quan hệ hôn nhân, chị xin được ly hôn với anh Nguyễn Phú Q là có cơ sở chấp nhận vì theo khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Khi vợ hoặc chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”. Xét thấy do tình trạng hôn nhân giữa chị H và anh Q hiện đang rất trầm trọng, nguyên nhân là do anh Q thường xuyên đi tìm thú vui với người phụ nữ khác bên ngoài, về đến nhà thì vợ chồng thường xuyên cãi nhau, thậm chí anh Q còn đánh đập chị H, anh Q không quan tâm đến cuộc sống vợ con, chị H có khuyên bảo anh Q nhiều lần nhưng anh Q không nghe. Từ đó vợ chồng bất đồng quan điểm với nhau trong cuộc sống, có lối sống không phù hợp, làm cho mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, chị H và anh Q đã sống ly thân từ tháng 07 năm 2019 cho đến nay. Vì vậy lời yêu cầu của chị H xin được ly hôn với anh Q được Tòa án chấp thuận.

[4] Về quan hệ con chung: Chị H yêu cầu xin được nhận nuôi cháu Nguyễn Phú T, sinh ngày 25/08/2008 và cháu Nguyễn Thị Mỹ D, sinh ngày 31/12/2013. Xét thấy giao cháu Nguyễn Phú T sinh ngày 25/08/2008 và cháu Nguyễn Thị Mỹ D, sinh ngày 31/12/2013 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là có cơ sở chấp nhận. Vì theo khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Theo quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”. Được biết từ lúc chị H và anh Q sống ly thân từ tháng 07 năm 2019 cho đến nay thì cháu Nguyễn Phú T và cháu Nguyễn Thị Mỹ D đều do chị H chăm sóc, nuôi dưỡng đầy đủ và hiện nay chị H làm nghề công nhân may tại Công ty TNHH HWA SEUNG RẠCH GIÁ tại thành phố Rạch Giá, tỉnh Kiên Giang và có thu nhập theo bảng lương là 6.216.000đ/01 tháng. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy giao cháu Nguyễn Phú T, sinh ngày 25/08/2008 và cháu Nguyễn Thị Mỹ D, sinh ngày 31/12/2013 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với thực tế, do cháu T hiện nay 12 tuổi và cháu D 07 tuổi, nguyện vọng của cháu T, cháu D là khi cha mẹ cháu ly hôn thì cháu T và cháu D sẽ sống với mẹ. Vì vậy được Hội đồng xét xử ghi nhận. Không ai có quyền cản trở việc tới lui thăm nom con chung.

[5] Xét yêu cầu của chị H yêu cầu cấp dưỡng nuôi cháu cấp dưỡng cho cháu T 1.000.000đ/01 tháng và cháu D 1.000.000đ/01 tháng cho đến khi cháu T và cháu D đủ 18 tuổi. Xét thấy yêu cầu cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Phú T và cháu Nguyễn Thị Mỹ D của chị H là có cơ sở chấp nhận. Bởi vì theo khoản 2 Điều 82 Luật Hôn và gia đình năm 2014 quy định: “Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con”. Hiện nay tại phiên tòa cho thấy anh Nguyễn Phú Q có nghề làm hàn tiện. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy anh Nguyễn Phú Q cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Phú T 1.000.000đ/01 tháng và cháu Nguyễn Thị Mỹ D 1.000.000đ/01 tháng là phù hợp với thực tế. Vì vậy Hội đồng xét xử buộc anh Nguyễn Phú Q cấp dưỡng cho cháu Nguyễn Phú T 1.000.000đ/01 tháng và cháu Nguyên Thị Mỹ D 1.000.000đ/01 tháng cho đến khi cháu T và cháu D đủ 18 tuổi là phù hợp theo quy định pháp luật, thời gian bắt đầu anh Nguyễn Phú Q cấp dưỡng cho cháu Nguyễn Phú T và cháu Nguyễn Thị Mỹ D kể từ khi án có hiệu lực pháp luật.

[61 Về quan hệ tài sản chung và nợ chung: Do chị H và anh Q không có tài sản chung và chị H, anh Q tự nguyện thỏa thuận về nợ chung và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử miễn xét.

[7] Về án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm: chị H phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo lai thu số 0008336 ngày 29/04/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Chị H đã nộp đủ.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng Khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng điểm b khoản 2 Điều 227, Khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: chị Ngô Thị H và anh Nguyễn Phú Q được ly hôn 2. Về quan hệ con chung: Giao cháu Nguyễn Phú T, sinh ngày 25/08/2008 và cháu Nguyễn Thị Mỹ D, sinh ngày 31/12/2013 cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng và nguyện vọng của cháu T, cháu D là sau khi chị H và anh Q ly hôn thì cháu sẽ sống với chị H. Không ai có quyền cản trở việc tới lui thăm nom con chung.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Chấp nhận yêu cầu của chị Ngô Thị H về cấp dưỡng nuôi cháu Nguyễn Phú T 1.000.000đ/01 tháng và cháu Nguyễn Thị Mỹ D 1.000.000đ/01 tháng cho đến khi cháu T và cháu D đủ 18 tuổi. Buộc anh Nguyễn Phú Q có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu Nguyễn Phú T số tiền là 1.000.000đ/01 tháng và cháu Nguyễn Thị Mỹ D số tiền là 1.000.000 đồng/01 tháng cho đến khi cháu Nguyễn Phú T và cháu Nguyễn Thị Mỹ D đủ 18 tuổi, thời gian bắt đầu anh Nguyễn Phú Q cấp dưỡng cho cháu Nguyễn Phú T và cháu Nguyễn Thị Mỹ D kể từ khi án có hiệu lực pháp luật.

4. Về án phí Hôn nhân sơ thẩm: Buộc chị Ngô Thị H nộp 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo lai thu số 0008336 ngày 29/04/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Hiệp, tỉnh Kiên Giang. Chị H đã nộp đủ.

5. Về án phí cấp dưỡng: Buộc anh Nguyễn Phú Q nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng). Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Báo cho chị Ngô Thị H biết có quyền kháng cáo trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Báo cho anh Nguyễn Phú Q biết có quyền kháng cáo trong hạn luật định là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày Tòa án niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

148
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 46/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:46/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tân Hiệp - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;