Bản án về ly hôn số 43/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN LÃO, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 43/2021/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 7 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 55/2021/TLST-HNGĐ, ngày 30 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 420/2021/QĐXXST-HNGĐ, ngày 10 tháng 6 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên tòa số 519/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 06 tháng 7 năm 2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Nguyễn Sĩ L; trú tại: Thôn A, xã K, huyện K, thành phố Hải Phòng; vắng mặt tại phiên tòa, có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Bà Vũ Thị T; trú tại: Thôn K, xã C, huyện A, thành phố Hải Phòng;

vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 25 tháng 02 năm 2021, bản tự khai của nguyên đơn ông Nguyễn Sĩ L trình bày:

Ông và bà Vũ Thị T tự nguyện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện K, thành phố Hải Phòng vào ngày 28 tháng 5 năm 2007. Sau khi kết hôn ông bà chung sống tại gia đình ông L ở thôn A, xã K, huyện K, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp. Từ đó vợ chồng không còn quan tâm nhau, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Cuối năm 2008, bà T về nhà của mình tại thôn K, xã C, huyện A, Hải Phòng sinh sống. Vợ chồng ly thân từ đó đến nay, không quan tâm đến nhau. Nay ông L xác định tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn không có khả năng hàn gắn nên đề nghị ly hôn bà T. Về con chung: Ông Nguyễn Sĩ L và bà Vũ Thị T không có con chung. Về tài sản chung: Ông L tự thoả thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn bà Vũ Thị T đã được Tòa án tống đạt Thông báo thụ lý vụ án và nhiều lần tống đạt Giấy triệu tập hợp lệ để đến Tòa án để giải quyết vụ án, nhưng đều vắng mặt, không có lý do.

Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng tại phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết từ khi thụ lý vụ án đến khi xét xử của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã đảm bảo đúng quy định pháp luật tố tụng. Nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về đường lối giải quyết vụ án: Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 1, 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; các điều 19, 51, 56 của Luật Hôn nhân và gia đình xử cho ông Nguyễn Sĩ L được ly hôn bà Vũ Thị T. Về con chung và tài sản chung: Ông L, bà T không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết tài sản chung nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét. Về án phí ông L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

Về tố tụng:

[1] Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân và gia đình, bị đơn là bà Vũ Thị T; trú tại: Thôn K, xã C, huyện A, thành phố Hải Phòng nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện An Lão, thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Nguyên đơn ông Nguyễn Sĩ L vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn bà Vũ Thị T vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do mặc dù đã được triệu tập hợp lệ. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt ông Nguyễn Sĩ L và bà Vũ Thị T.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Ông Nguyễn Sĩ L và bà Vũ Thị T kết hôn có đăng ký tại Ủy ban nhân dân xã K, huyện K, thành phố Hải Phòng vào ngày 28 tháng 5 năm 2007 là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Mâu thuẫn giữa ông L và bà T là do tính cách, lối sống không hợp. Trong cuộc sống chung vợ chồng không quan tâm đến nhau, tình cảm gia đình lạnh nhạt. Từ cuối năm 2008, ông L bà T sống ly thân đến nay, không còn quan tâm đến nhau. Quá trình xác minh chính quyền địa phương và gia đình đều xác nhận mâu thuẫn của ông bà không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, ông L xin ly hôn bà T là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên được chấp nhận.

[4] Về con chung: Ông L và bà T không có con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Ông L, không yêu cầu Tòa án giải quyết còn bà T không có ý kiến gì trong quá trình giải quyết vụ án nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Ông Nguyễn Sĩ L phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 266, Điều 271, khoản 1 Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Căn cứ Điều 19, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Tuyên xử:

1. Ông Nguyễn Sĩ L được ly hôn bà Vũ Thị T.

2. Về án phí: Ông Nguyễn Sĩ L phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông Nguyễn Sĩ L đã nộp là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0011718 ngày 29 tháng 3 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Lão, thành phố Hải Phòng. Ông Nguyễn Sĩ L đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo bản án: Ông Nguyễn Sĩ L và bà Vũ Thị T được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

129
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 43/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:43/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Lão - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;