Bản án về ly hôn số 40/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠNH PHÚ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 40/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 12 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 88/2022/TLST-HNGĐ ngày 09 tháng 5 năm 2022 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 42/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 8 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 49/2022/QĐST-HNGĐ ngày 31 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kiều M, sinh năm 1990. (Chị M có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt).

Nơi cư trú: số E, ấp TQ, thị trấn TP, huyện TP, tỉnh BT.

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Phạm Minh T, sinh năm 1990 (Vắng mặt không có lí do).

Nơi cư trú: số Q, ấp AB, xã AT, huyện TP, tỉnh BT.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện đề ngày 19/4/2022, các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kiều M trình bày:

Vào năm 2014 tôi và anh Nguyễn Phạm Minh T có quen biết rồi tiến tới hôn nhân, chúng tôi đi đăng ký kết hôn tại UBND xã AT, ngày 20/5/2014. Cuộc sống hôn nhân của tôi và anh T hạnh Phúc được thời gian, sau đó thời gian gần xảy ra mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng thường xuyên cãi nhau nên không còn hạnh phúc, không thể sống chung được nên tôi sống ly thân anh T từ khoảng năm 2019 cho đến nay. Hiện nay tình cảm vợ chồng không còn nên tôi yêu cầu ly hôn anh T. Về con chung: Tôi yêu cầu được nuôi cháu Nguyễn Minh P, sinh ngày 29/8/2014 không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung và về nợ chung: không có nên không yêu cầu giải quyết.

Trong quá trình tố tụng anh Nguyễn Phạm Minh T vắng mặt nên không có lời trình bày.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú phát biểu quan điểm:

Về việc tuân theo pháp luật: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên Tòa đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo qui định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Bị đơn Nguyễn Phạm Minh T không đến Tòa để tham gia hòa giải, tham gia phiên tòa là chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ theo quy định tại Điều 70, 72 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung:

Căn cứ vào các Điều 28, 35, 39, 227, 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình. Đề nghị:

Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Kiều M. Chị M không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn nên đề nghị không xem xét.

Về con chung: Chị M được trực tiếp nuôi con chung tên Nguyễn Minh P, sinh ngày 29/8/2014 (theo nguyện vọng của cháu P). Anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị Mai không có yêu cầu.

Về tài sản chung: Chị M trình bày không có tài sản chung nên không xem xét.

Về nợ chung: Chị M trình bày không có nợ chung nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được xem xét tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Căn cứ vào đơn xin ly hôn của chị Nguyễn Thị Kiều M yêu cầu xin ly hôn với anh Nguyễn Phạm Minh T nên căn cứ vào điều 51 Luật hôn nhân gia đình xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn”.

[2] Anh Nguyễn Phạm Minh T hiện đang cư trú tại xã AT, huyện TP, tỉnh BT. Căn cứ vào Điều 35 Bộ luật Tố tụng dân sự thì thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.

[3] Xét việc anh Nguyễn Phạm Minh T vắng mặt tại phiên tòa Hội đồng xét xử xét thấy: Anh T đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai đến tham gia phiên tòa nhưng anh T vẫn không có mặt. Việc vắng mặt không rõ lý do, không có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt anh T theo quy định Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Nguyên đơn chị M có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt chị M theo qui định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Kiều M và anh Nguyễn Phạm Minh T kết hôn trên cơ sở tự nguyện. Cả hai đều có đủ điều kiện kết hôn và được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận và bảo vệ. Xét yêu cầu ly hôn của chị M Hội đồng xét xử xét thấy: Sau khi kết hôn chị M và anh T có thời gian ngắn sống chung hạnh phúc, sau đó phát sinh mâu thuẩn. Nguyên nhân mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống vợ chồng thường xuyên cãi nhau, không thể hàn gắn, nay tình cảm vợ chồng không còn nên cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc. Theo biên bản xác minh ngày 09/8/2022 của Tòa án đối với ông Nguyễn Văn T là cha ruột anh T thì ông T cho biết là giữa anh T và chị M có mâu thuẫn trong cuộc sống nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là do bất đồng quan điểm sống nên vợ chồng anh T có cự cãi nhau và hiện tại không sống chung. Nhiều lần ông nhận được Thông báo, giấy triệu tập của Tòa án tống đạt cho anh T. Ông có chuyển giao lại cho anh T đầy đủ, đúng thời gian quy định như đã cam kết nhưng anh T không đến Tòa án theo nội dung Tòa án đã thông báo và triệu tập. Điều đó chứng tỏ anh T không có nguyện vọng hàn gắng tình cảm vợ chồng với chị M, không muốn vợ chồng hòa giải để đoàn tụ với nhau. Xét thấy, tình trạng hôn nhân giữa chị M và anh T đã mâu thuẫn đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị M yêu cầu được ly hôn với anh T là có căn cứ. Phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Chị M không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về con chung: Chị M và anh T có con chung là cháu tên Nguyễn Minh P, sinh ngày 29/8/2014. Chị M có yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung, không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy, từ lúc chị M và anh T sống ly thân cho đến nay, chị M là người trực tiếp nuôi dưỡng cháu P, cháu P có nguyện vọng được sống chung với chị M và trong quá trình giải quyết vụ án anh T không có ý kiến gì đối với con chung. Do đó, việc chị M có yêu cầu được tiếp tục nuôi con chung là phù hợp nên được Hội đồng xét xử chấp nhận. Ghi nhận việc chị M không yêu cầu nghĩa vụ cấp cấp dưỡng nuôi con chung.

[6] Về tài sản chung: Chị M trình bày không có tài sản chung, anh T không ý kiến về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về nợ chung: Chị M trình bày không có nợ chung, anh T không ý kiến về nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8] Chị Mai phải nộp án phí theo quy định tại Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[9] Xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thạnh Phú phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, điểm a, khoản 1 Điều 35, Điều 147, 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và gia đình.

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

Tuyên:

1. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Nguyễn Thị Kiều M.

Chị M được ly hôn với anh Nguyễn Phạm Minh T.

Chị M không yêu cầu nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về con chung: Chị M được trực tiếp nuôi các con chung tên Nguyễn Minh P, sinh ngày 29/8/2014 (theo nguyện vọng của cháu P). Anh Nguyễn Phạm Minh T không phải cấp dưỡng nuôi con do chị M không yêu cầu.

Sau khi ly hôn, cha, mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình và các luật khác có liên quan. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình, yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung: Chị M trình bày không có tài sản chung, anh T không ý kiến về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về nợ chung: Chị M trình bày không có nợ chung, anh H không ý kiến về nợ chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí hôn nhân và gia đình: Chị Nguyễn Thị Kiều M phải nộp số tiền là 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0004550 ngày 09 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre.

6. Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày Tòa án tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

124
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 40/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:40/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạnh Phú - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;