Bản án về ly hôn số 37/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TRỰC NINH, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 37/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/03/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 30 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Trực Ninh mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 11/2021/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 02 năm 2021 về việc xin ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Lâm Thị R; sinh năm 1979; trú tại: huyện T, tỉnh Nam Định.

Bị đơn: Anh Lâm Văn T; sinh năm 1977; trú tại: xã T, huyện T, tỉnh Nam Định.

Tại phiên tòa: Các đương sự có đề nghị xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn, bản tự khai đề ngày 22/02/2021 nguyên đơn là chị Lâm Thị R trình bày:

Chị và anh Lâm Văn T có tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 09 tháng 10 năm 1997 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Nam Định. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc nhưng từ năm 2001 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là anh T thường xuyên cờ bạc, rượu chè, đánh đập chị. Vợ chồng chị đã sống ly thân từ cuối năm 2001 đến nay. Chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể đoàn tụ được nên đề nghị ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Lâm Văn T1, sinh ngày 12/9/1998. Con chung đã chết vào ngày 10/9/2017.

Về tài sản chung, công nợ: Vợ chồng không có tài sản chung, công nợ nên chị không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai của anh Lâm Văn T ngày 02 tháng 3 năm 2021, anh T trình bày:

Anh đã nhận được thông báo thụ lý vụ án của TAND huyện Trực Ninh về việc chị Lâm Thị R có đơn xin ly hôn đối với anh. Về quá trình kết hôn, anh và chị R có đăng ký kết hôn vào năm 1997 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Nam Định. Quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn và đã sống ly thân khoảng hơn 10 năm nay, không ai quan tâm tới ai. Nay chị R có đơn xin ly hôn, anh nhận thấy tình cảm không còn, không thể hàn gắn được nữa nên anh đồng ý ly hôn.

Về con chung, vợ chồng anh có 01 con chung là Lâm Văn T1, sinh ngày 12/9/1998. Con chung đã chết vào ngày 10/9/2017.

Về tài sản chung, công nợ: vợ chồng không có tài sản chung, công nợ nên anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nữa nên anh đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nữa. Vì lý do công việc nên anh T xin được vắng mặt tại phiên tòa.

Quan điểm của kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa:

Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa của Thẩm phán và HĐXX đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành nghiêm chỉnh quy định về quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn theo quy định tại các Điều 70; 71 BLTTDS;

Bị đơn mặc dù đã được tống đạt các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng không có mặt để hòa giải và không xuất trình chứng cứ chứng minh cho yêu cầu của mình là vi phạm quy định về quyền và nghĩa vụ của bị đơn theo quy định tại các Điều 70; 72 BLTTDS.

Việc Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án khi các đương sự có đề nghị xét xử vắng mặt là đúng quy định tại Điều 238 BLTTDS.

Về nội dung: Xét thấy vợ chồng chị R, anh T sống ly thân đã lâu, mục đích hôn nhân không đạt được, nên đề nghị HĐXX áp dụng các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Lâm Thị R.

xét.

Về tài sản, công nợ: Đương sự không đề nghị giải quyết nên không xem Về án phí: Chị R phải nộp theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã tiến hành các thủ tục tống đạt văn bản tố tụng cho nguyên đơn, bị đơn được biết. Việc Tòa án mở phiên tòa xét xử vụ án khi nguyên đơn, bị đơn có đề nghị xét xử vắng mặt là đúng quy định tại Điều 238 BLTTDS.

[2] Về tình cảm: Chi Lâm Thị R và anh Lâm Văn T có tìm hiểu và đăng ký kết hôn vào ngày 09 tháng 10 năm 1997 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Nam Định là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2001 phát sinh mâu thuẫn. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2001 đến nay không ai quan tâm đến ai.

Sau khi chị R có đơn khởi kiện xin ly hôn, Tòa án đã thông báo nội dung khởi kiện cho anh T được biết. Tại bản tự khai của anh Lâm Văn T ngày 02 tháng 3 năm 2021, anh T trình bày:

Anh đã nhận được thông báo thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân huyện Trực Ninh về việc chị Lâm Thị R có đơn xin ly hôn đối với anh. Về quá trình kết hôn, anh và chị R có đăng ký kết hôn vào năm 1997 tại UBND xã T, huyện T, tỉnh Nam Định. Quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn và đã sống ly thân khoảng hơn10 năm nay, không ai quan tâm tới ai. Nay chị R có đơn xin ly hôn, anh nhận thấy tình cảm không còn, không thể hàn gắn được nữa nên anh đồng ý ly hôn.

Anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nữa nên anh đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nữa. Vì lý do công việc nên anh T xin được vắng mặt tại phiên tòa. Anh vẫn giữ nguyên quan điểm nội dung như bản tự khai anh đã trình bày và không bổ sung gì thêm.

Hi đồng xét xử xét thấy: Chị R và anh T đã phát sinh mâu thuẫn từ lâu, tình cảm vợ chồng không còn, vợ chồng đã sống ly thân từ lâu. Như vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị R và anh T đã thực sự tan vỡ, mục đích của hôn nhân không đạt được, không thể đoàn tụ với nhau được nữa nên việc chị R xin ly hôn, annh T cũng nhất trí là phù hợp với quy định của pháp luật nên được HĐXX chấp nhận.

[3] Về tài sản chung, công nợ: Đương sự không đề nghị giải quyết nên không xem xét.

Về con chung, vợ chồng có 01 con chung là Lâm Văn T1, sinh ngày 12/9/1998. Con chung đã chết vào ngày 10/9/2017 các đương sự không có đề nghị gì nên không xem xét.

[4] Về án phí: Chị R phải nộp theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng về án phí và lệ phí Toà án:

1. Xử ly hôn giữa chị Lâm Thị R và anh Lâm Văn T.

2. Án phí: Chị Lâm Thị R phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự. Được trừ với số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng chị R đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2019/0002292 ngày 04/02/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Chị R đã nộp xong án phí dân sự sơ thẩm.

3. Chị Lâm Thị R, anh Lâm Văn T có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của BLTTDS.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế Thi hành án theo các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu Thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

182
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 37/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:37/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Trực Ninh - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;