Bản án về ly hôn số 345/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NĐ, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 345/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 9 năm 2022, tại Trụ sở Toà án nhân dân thành phố NĐ, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 73/2022/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2022 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 100/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 25-8-2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 45/QĐST-HNGĐ ngày 08-9-2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Bích N, sinh năm 1982; nơi cư trú: Khu tái định cư PNL (nay là số 10 đường Đào Văn T), phường MX, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định; có mặt.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Nhất T, sinh năm 1982; nơi cư trú: Khu tái định cư PNL (nay là số 10 đường Đào Văn T), phường MX, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định; vắng mặt không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Tại đơn khởi kiện tranh chấp về hôn nhân và gia đình ngày 30-3-2022, trong quá trình tham gia tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Bích N trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Nhất T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã Nam Vân, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định ngày 05-9-2005. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian đầu thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính cách của hai vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống. Năm 2018 anh T có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác nên mâu thuẫn vợ chồng càng xảy ra căng thẳng. Bốn năm nay vợ chồng đã tìm cách khắc phục mâu thuẫn nhưng không có kết quả. Mặc dù sống cùng nhà nhưng vợ chồng không quan tâm đến nhau. Chị đã ba lần nộp đơn yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn vào các năm 2018, 2020, 2022 nhưng anh T hứa sẽ sửa chữa khuyết điểm nên chị rút đơn để vợ chồng đoàn tụ. Tuy nhiên, anh T vẫn không khắc phục, vẫn giữ lối sống cũ, vợ chồng mất niềm tin ở nhau. Chị Nguyễn Bích N xác định vợ chồng không thể hàn gắn, đoàn tụ nên kiên quyết giữ quan điểm xin ly hôn.

Về con chung: Vợ chồng chị có có 02 (hai) con chung là Nguyễn Ngọc A (giới tính: Nữ), sinh ngày 07-12-2005 và Nguyễn Nhật A (giới tính: Nam), sinh ngày 24-7-2008. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung Nguyễn Nhật A, sinh ngày 24-7-2008 và giao cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 07-12-2005. Do mỗi người nuôi một con thì hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị và anh T tự giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Tại bản tự khai ngày 09-5-2022 và trong quá trình tham gia tố tụng bị đơn là anh Nguyễn Nhất T trình bày: Anh xác nhận vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn từ khoảng năm 2018. Nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng không thông cảm, thấu hiểu cho công việc của nhau. Anh thừa nhận từ khoảng năm 2018, anh có quan hệ bạn bè với người phụ nữ. Vì lý do công việc, anh có gặp người phụ nữ đó vài lần khiến vợ chồng xảy ra mâu thuẫn. Gần đây, khi anh về nhà, chị N không cho anh vào nhà nên anh đã gặp người phụ nữ đó ở khách sạn để nói chuyện chấm dứt mối quan hệ đó nhưng chị N biết chuyện nên mâu thuẫn của vợ chồng căng thẳng hơn. Nay anh đã nhận thức được những sai lầm của mình nên hứa sẽ sửa đổi, anh không đồng ý ly hôn, mong muốn vợ chồng có thêm thời gian để tự hòa giải. Đồng thời, chị N đang bị bệnh ung thư tuyến giáp nên anh đề nghị có thời gian để chị N điều trị, phục hồi sức khỏe.

Về con chung: Vợ chồng anh có có 02 (hai) con chung là Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 07-12-2005 và Nguyễn Nhật A, sinh ngày 24-7-2008. Nếu Tòa án giải quyết ly hôn, anh có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai con chung và không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Anh và chị N tự giải quyết, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Tại biên thu thập tài liệu chứng cứ ngày 11-8-2022 của Tòa án nhân dân thành phố NĐ, chính quyền địa phương xác nhận vợ chồng chị N và anh T có xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu do tính cách và quan điểm sống của vợ chồng không hòa hợp. Chị N và anh T có 02 con chung là Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 07- 12-2005 và Nguyễn Nhật A, sinh ngày 24-7-2008. Nay chị N yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh T và giải quyết về việc nuôi con, đề nghị Tòa án hòa giải cho anh chị. Nếu không được đề nghị giải quyết theo quy định của pháp luật.

4. Tại đơn đề nghị ngày 11-8-2022, cháu Nguyễn Ngọc A (con đẻ của chị N và anh T) trình bày nguyện vọng được bố trực tiếp nuôi dưỡng nếu bố mẹ ly hôn.

Tại biên bản lấy lời khai ngày 11-8-2022 của Tòa án nhân dân thành phố NĐ, cháu Nguyễn Nhật A (con đẻ của chị N và anh T) trình bày nguyện vọng được mẹ trực tiếp nuôi dưỡng nếu bố mẹ ly hôn.

5. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố NĐ, tỉnh Nam Định căn cứ Điều 21, Điều 262 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nhận xét đánh giá:

Về quá trình tiến hành tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân thủ đúng các quy định của pháp luật.

Về việc chấp hành pháp luật của các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quy định của pháp luật, bị đơn đã được triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt không có lý do.

Về việc giải quyết vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh T là hôn nhân hợp pháp. Nay hôn nhân giữa chị N và anh T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, mâu thuẫn kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó căn cứ Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đề nghị Hội đồng xét xử xử ly hôn giữa chị Nguyễn Bích N và anh Nguyễn Nhất T. Về con chung: Xét nguyện vọng của anh T, chị N và các con chung. Để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chung và xét khả năng, điều kiện nuôi con của chị N và anh T, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, giao cho chị Nguyễn Bích N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu Nguyễn Nhật A, sinh ngày 24-7-2008; giao cho anh Nguyễn Nhất T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục cháu Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 07-12-2005. Chị N và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau. Chị N là nguyên đơn nên phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Anh Nguyễn Nhất T là bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vắng mặt tại phiên tòa lần thứ hai không có lý do nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh T.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Bích N và anh Nguyễn Nhất T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, anh chị có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nam Vân, thành phố NĐ, tỉnh Nam Định ngày 05-9-2005 nên hôn nhân giữa chị N và anh T là hôn nhân hợp pháp.

[3] Về tình cảm: Quá trình chung sống, chị N và anh T đã xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân do tính cách của hai vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng nghi ngờ tình cảm của nhau, không tôn trọng nhau, mất niềm tin ở nhau. Mặc dù anh chị đã nhiều lần cho nhau cơ hội nhưng mâu thuẫn vẫn tiếp tục xảy ra, không có khả năng đoàn tụ, hàn gắn. Nay chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết ly hôn. Anh T không đồng ý ly hôn và mong muốn vợ chồng có thêm thời gian khắc phục mâu thuẫn. Tuy nhiên, anh T nhiều lần không tham gia các phiên hòa giải và không tham gia phiên tòa. Điều đó chứng tỏ anh T không có thiện chí hòa giải mâu thuẫn vợ chồng. Xét thấy tình trạng hôn nhân giữa chị N và anh T ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên Hội đồng xét xử căn cứ quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N.

[4] Về con chung: Chị N và anh T có 02 con chung là Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 07-12-2005 và Nguyễn Nhật A, sinh ngày 24-7-2008. Xét nguyện vọng của chị N và anh T về người trực tiếp nuôi con và nguyện vọng của cháu Nguyễn Ngọc A được bố trực tiếp nuôi dưỡng, nguyện vọng của cháu Nguyễn Nhật A được mẹ trực tiếp nuôi dưỡng. Đồng thời, xét chị N và anh T đều có thu nhập, có khả năng, điều kiện nuôi dưỡng con. Để đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con chung, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Bích N: Giao cho chị Nguyễn Bích N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung là Nguyễn Nhật A, sinh ngày 24-7-2008; giao cho anh Nguyễn Nhất T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung là Nguyễn Ngọc A, sinh ngày 07-12-2005 theo quy định tại Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về cấp dưỡng nuôi con: Do mỗi người nuôi một con chung nên chấp nhận yêu cầu của chị N là hai bên không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

[5] Về tài sản chung và vay nợ chung của vợ chồng: Chị N và anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015 và khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội chị Nguyễn Bích N là nguyên đơn trong vụ án nên phải chịu toàn bộ án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 56, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014Căn cứ vào khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015Căn cứ vào khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Xử ly hôn giữa chị Nguyễn Bích N và anh Nguyễn Nhất T.

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Nhật A (giới tính: Nam), sinh ngày 24-7-2008 cho chị Nguyễn Bích N trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Giao con chung là Nguyễn Ngọc A (giới tính: Nữ), sinh ngày 07-12-2005 cho anh Nguyễn Nhất T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. chị Nguyễn Bích N và anh Nguyễn Nhất T không phải cấp dưỡng nuôi con cho nhau.

Bên không trực tiếp nuôi con chung có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Không ai được hạn chế, cản trở các quyền này.

Bên không trực tiếp nuôi con chung có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi con, không được lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc giáo dục, nuôi dưỡng con của người trực tiếp nuôi con chung.

3. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Chị Nguyễn Bích N phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng). Khấu trừ khoản tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) chị Nguyễn Bích N đã nộp tại biên lai số 0005208 ngày 05-4-2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố NĐ. Chị Nguyễn Bích N đã nộp đủ.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Bích N có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Nhất T có quyền làm đơn kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

5. Trong trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì chị Nguyễn Bích N và anh Nguyễn Nhất T có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

27
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 345/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:345/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Nam Định - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;