Bản án về ly hôn số 30/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HUẾ, TỈNH THỪA THIÊN HUẾ

BẢN ÁN 30/2021/HNGĐ-ST NGÀY 30/06/2021 VỀ LY HÔN

Trong ngày 30 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố H (số 60 NH, thành phố H) xét xử sơ thẩm công khai vụ dân sự thụ lý số: 515/2020/TLST- HNGĐ ngày 11 tháng 11 năm 2020; về việc: "Ly hôn"; theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 27/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 11 tháng 5 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 104/QĐHPT-HNGĐ ngày 08 tháng 6 năm 2021; giữa các đương sự:

1.Nguyên đơn: Anh Nguyễn Hoàng Nhật A, sinh năm 1984. Nơi cư trú: 94 ĐBP, phường TA, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - có mặt.

2.Bị đơn: Chị Trương Thị Phương C, sinh năm 1988. Nơi ĐKNKTT: 94 ĐBP, phường TA, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế. Chỗ ở hiện nay: 03/120 TTT, phường TL, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế - vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và các lời khai tại Tòa án nhân dân thành phố H, nguyên đơn anh Nguyễn Hoàng Nhật A trình bày:

Anh và chị Trương Thị Phương C kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường TA, thành phố H, tỉnh Thừa Thiên Huế vào ngày 10/01/2013. Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc được khoảng năm năm, đến năm 2018 thì giữa vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng sống với nhau nhiều năm nhưng không có con, chị C thường xuyên vắng nhà và có nhiều mối quan hệ phức tạp làm ảnh hưởng đến đời sống gia đình. Hai vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay và không còn liên lạc gì với nhau. Nay anh nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Trương Về con chung: Quá trình chung sống anh Nguyễn Hoàng Nhật A và chị Trương Thị Phương C không có con chung.

Về tài sản chung: Anh Nguyễn Hoàng Nhật A xác nhận hai vợ chồng không có tài sản chung.

Về nợ chung: Anh Nguyễn Hoàng Nhật A xác nhận hai vợ chồng không có nợ chung.

Qua xác minh tại gia đình anh A và chính quyền địa phương phường TA, thành phố H được biết, anh A và chị C kết hôn vào năm 2013, sau khi kết hôn hai vợ chồng sống chung tại địa chỉ 94 ĐBP, phường TA, thành phố H. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2019 thì bắt đầu nảy sinh mâu thuẫn. Từ năm 2019 đến nay, chị C đã về nhà cha mẹ ruột của mình sinh sống nên vợ chồng không còn quan tâm gì đến cuộc sống của nhau nữa. Nay anh A xin ly hôn chị C, thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Quá trình giải quyết vụ án, anh A cho rằng mâu thuẫn vợ chồng anh đã đến mức trầm trọng, không thể khắc phục đoàn tụ được, nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị C. Về phía chị C thì Tòa án đã tống đạt cho chị C và chị là người trực tiếp nhận các văn bản tố tụng gồm Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Giấy triệu tập nhưng chị C không đến để làm việc, Tòa án đã niếm yết hợp lệ Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên tòa, Giấy triệu tập tham gia tố tụng tại phiên tòa lần thứ nhất và lần thứ hai, nhưng chị C vẫn vắng mặt.

Tại phiên tòa, anh A vẫn giữ yêu cầu khởi kiện của mình là đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận cho anh được ly hôn chị C.

Về kiểm sát việc tuân theo pháp luật, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H có ý kiến:

+ Về tố tụng: Thẩm phán thụ lý vụ án, xác định tư cách pháp lý người tham gia tố tụng, thu thập chứng cứ, chuẩn bị xét xử và quyết định đưa vụ án ra xét xử đều đảm bảo đúng quy định về thời hạn, nội dung, tư cách pháp lý và thẩm quyền theo quy định của Bộ luật Dân sự; Hội đồng xét xử và thư ký thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về xét xử sơ thẩm vụ án. Người tham gia tố tụng thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

+ Về nội dung giải quyết vụ án:

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Nguyễn Hoàng Nhật A đối với chị Trương Thị Phương C.

Về con chung: Anh Nguyễn Hoàng Nhật A và chị Trương Thị Phương C không có con chung nên không đề nghị.

Về tài sản chung và nợ chung: Anh Nguyễn Hoàng Nhật A xác nhận vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung, nên không đề nghị.

Về án phí: Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên buộc anh A phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng: Đối với bị đơn là chị Trương Thị Phương C đã được niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Quyết định hoãn phiên toà và Giấy triệu tập đến tham gia tố tụng tại phiên toà hơp lê lần thứ hai, nhưng chị C vẫn vắng mặt, nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt bị đơn theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ hôn nhân giữa anh Nguyễn Hoàng Nhật A và chị Trương Thị Phương C là hợp pháp. Quá trình chung sống, đến năm 2018 giữa vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do hai vợ chồng sống với nhau nhiều năm nhưng không có con, chị C thường xuyên vắng nhà, không vun vén hạnh phúc gia đình làm ảnh hưởng đến đời sống tình cảm vợ chồng. Phía anh A thì không tin tưởng chị C về mặt tình cảm. Nên vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay không còn liên lạc gì với nhau nữa. Anh A nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị Trương Thị Phương C. Hội đồng xét xử xét thấy, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ cho chị C nhưng chị C đều không đến làm việc, thể hiện chị C không có thiện chí hàn gắn quan hệ vợ chồng, đến nay tình trạng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh A đối với chị C là có căn cứ.

[3] Về con chung: Quá trình chung sống anh A và chị C không có con chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ chung: Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa hôm nay anh A xác nhận quá trình chung sống vợ chồng không có tài sản chung và không có nợ chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Anh A phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm;

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; Điều 146; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; 53; 54; 56; 57 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội;

Tuyên xử:

[1].Về quan hệ hôn nhân: Anh Nguyễn Hoàng Nhật A được ly hôn chị Trương

[2].Về con chung: Anh Nguyễn Hoàng Nhật A và chị Trương Thị Phương C không có con chung.

[3].Về tài sản chung và nợ chung: Anh Nguyễn Hoàng Nhật A xác nhận anh A và chị C không có tài sản chung và không có nợ chung.

[4].Về án phí: Anh Nguyễn Hoàng Nhật A phải chịu 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà anh A đã nộp tại biên lai số AA/2016/0000624 ngày 27/10/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H.

[3]. Quyền kháng cáo bản án: Nguyên đơn có mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

159
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 30/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:30/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Huế - Thừa Thiên Huế
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;