Bản án về ly hôn số 29/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 29/2022/HNGĐ-ST NGÀY 20/07/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 20 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 125/2022/TLST-HNGĐ ngày 05/5/2022 về việc: “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 29/2022/QĐST-HNGĐ ngày 20/6/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Dương Thị T, sinh năm: 1990; nơi thường trú: Tổ dân phố B, phường B, quận Đ, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Thôn F, xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.

Bị đơn: Anh Nguyễn Khắc D, sinh năm: 1989; nơi thường trú: Tổ dân phố B, phường B, quận Đ, thành phố Hải Phòng; nơi tạm trú: Thôn F, xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng.

Chị T có mặt, anh D có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, các tài liệu có trong hồ sơ và lời trình bày của chị Dương Thị T thì:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh D kết hôn năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Hôn nhân do hai bên tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại tổ dân phố B, phường B, quận Đ, thành phố Hải Phòng được một thời gian thì chuyển vào thôn F, xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng sinh sống. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được ba năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hiểu nhau, có những bất đồng về quan điểm, lối sống, anh D không lo làm ăn, vợ chồng không tin tưởng nhau. Anh D nghi ngờ chị có người đàn ông khác, vợ chồng không tin trọng nhau nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã và có đánh nhau hai lần. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 01/2022. Nay chị xác định vợ chồng không còn tình cảm, không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin được ly hôn với anh Nguyễn Khắc D.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Khắc Hoàng H, sinh ngày 22/10/2016, hiện con đang ở với anh D. Ly hôn chị đồng ý giao con chung cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ tuổi thành niên. Việc cấp dưỡng nuôi con chị tự thỏa thuận với anh D, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về tài sản chung và nợ chung: Chị T xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Theo bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án anh Nguyễn Khắc D trình bày thì:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị T kết hôn năm 2016, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Hôn nhân do hai bên tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại tổ dân phố B, phường B, quận Đ, thành phố Hải Phòng. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được ba năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không còn tin tưởng nhau và đã sống ly thân từ tháng 01/2022 đến nay. Nguyện vọng của anh là được ly hôn.

- Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Khắc Hoàng H, sinh ngày 22/10/2016, hiện con đang ở với anh D. Ly hôn anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc con chung cho đến khi con đủ tuổi thành niên. Anh không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung và nợ chung: Anh D xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh yêu cầu được vắng mặt trong tất xả các buổi làm việc, công khai chứng cứ, hòa giải và xin vắng mặt trong tất cả các buổi xét xử của Tòa án.

Tại phiên tòa, chị T vẫn giữa nguyên yêu cầu khởi kiện, anh D có đơn xin xét xử vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý vụ án cũng như giải quyết vụ án, thì Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn có đơn xin xét xử vắng mặt. Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt bị đơn là bảo đảm theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Xét mâu thuẫn giữa chị T và anh D có xảy ra và thực tế đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị T yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, anh D cũng đồng ý ly hôn với chị T nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp yêu cầu khởi kiện của chị T, cho chị T và anh D được ly hôn.

Về con chung: Giữa chị T và anh D có một con chung là cháu Nguyễn Khắc Hoàng H, sinh ngày 22/10/2016, hiện con đang ở với anh D. Ly hôn anh D yêu cầu được nuôi con chung; chị T cũng đồng ý giao con chung cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc nên đề nghị Hội đồng xét xử giao con chung cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ tuổi thành niên. Anh D không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập.

Về tài sản chung và nợ chung: Giữa chị T và anh D không có tài sản chung cũng như không có nợ chung nên không đề cập.

Về án phí: Buộc chị T phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Xuất phát từ yêu cầu khởi kiện của chị Dương Thị T yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Khắc D nên xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.

[2] Về tố tụng: Anh D có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh D theo quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị T và anh D kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền và được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc được ba năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng không hợp nhau, luôn có những bất đồng về quan điểm, lối sống, vợ chồng không tin tưởng nhau, thiếu tôn trọng nhau nên thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, có đánh nhau. Vợ chồng sống ly thân từ tháng 01/2022. Từ khi sống ly thân thì mỗi người sống một nơi, vợ chồng không còn quan tâm, chăm sóc gì đến nhau, mạnh ai người đó sống. Nay chị T xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh D nên yêu cầu được ly hôn với anh D. Anh D cũng xác định không còn tình cảm vợ chồng với chị T nên chị T xin ly hôn thì anh cũng đồng ý ly hôn với chị T. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị T và anh D đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ vào các Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị T. Cho chị T và anh D được ly hôn.

[4] Về con chung: Giữa chị T và anh D có một con chung là cháu Nguyễn Khắc Hoàng H, sinh ngày 22/10/2016, hiện con đang ở với anh D. Ly hôn anh D yêu cầu được nuôi con chung; chị Thắm cũng đồng ý giao con chung cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Xét thấy cháu H đang sống chung với anh D, có cuộc sống ổn định, phát triển bình thường nên căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của cháu H, cần giao cháu H cho anh D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi cháu H đủ tuổi thành niên. Anh D không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị T và anh D đều xác định vợ chồng không có tài sản chung cũng như không có nợ chung nên không đề cập. [6] Về án phí: Chị T phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, các Điều 147, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Dương Thị T và anh Nguyễn Khắc D ly hôn.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Khắc Hoàng H, sinh ngày 22/10/2016 cho anh Nguyễn Khắc D trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi con đủ tuổi thành niên.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp, không trực tiếp nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Chị Dương Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm (được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị T đã nộp theo biên lai thu số 0006603 ngày 05 tháng 5 năm 2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, chị T được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để xin xét xử phúc thẩm; riêng anh D vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

5. Trường hợp Bản án được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

11
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 29/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:29/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;