Bản án về ly hôn số 26/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THỐNG NHẤT, TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 26/2022/HNGĐ-ST NGÀY 29/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 4 năm 2022, tại Hội trường B - Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 115/ 2021/TLST-HNGĐ ngày 07/12/2021, về việc “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 22/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/03/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 54/2022/QĐST-DS ngày 14/4/2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ông Đinh Văn D, sinh năm 1971.

Địa chỉ: Số 3A3, ấp N, xã Q, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

- Bị đơn: Bà Ngô Thị H, sinh năm 1973.

Địa chỉ: Số 3A3, ấp N, xã Q, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai.

(Ông D, bà H đều vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện đề ngày 30/11/2021 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn ông Đinh Văn D trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Ông Đinh Văn D và bà Ngô Thị H quen biết tìm hiểu được khoảng thời gian ngắn thì vợ chồng tiến tới kết hôn có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã Q, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận kết hôn vào 14/05/1997. Đây là hôn nhân lần đầu của ông.

Sau khi cưới xong, ông và bà H sống tại địa chỉ ấp N, xã Q, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, mâu thuẫn vợ chồng phát sinh đã nhiều năm tuy nhiên trầm trọng vào khoảng năm 2016. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm, tính tình không hợp nên hay xảy ra cãi vã, thậm chí vợ chồng còn xảy ra xô xát. Ông D đã cố gắng nhẫn nhìn vì con cái nhưng mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể dung hòa được. Năm 2016, vợ chồng xảy ra mâu thuẫn, ông D bỏ ra căn nhà tạm ngoài rẫy để ở, còn bà H vẫn ở nhà chính tại địa chỉ số 3A3, ấp N, xã Quang Trung, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Trong khoảng thời gian sống ly thân bà H vẫn thường xuyên xúc phạm ông D, thậm chí bà khi ông D đưa bạn về chơi thì bà H vẫn không nể mặt. Do xấu hổ với bạn bè nên ông D có đánh bà H vài cái bạt tai và bà H có đưa đơn tố cáo ra công an xã Quang Trung. Mâu thuẫn vợ chồng đã được gia đình hai bên, con cái nhiều lần hòa giải nhưng vẫn không khắc phục được. Nay nhận thấy tình cảm không còn, ông D yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông được ly hôn với bà Ngô Thị H.

- Về con chung: Ông D và bà H chung sống có có 02 con chung là cháu Đinh Thị Thùy L, sinh ngày 29/5/1995 và cháu Đinh Thị Minh N, sinh ngày 27/12/2003. Hiện nay các con chung đều đã trưởng thành và có khả năng lao động.

- Về tài sản chung, nợ chung: vợ chồng tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Tại bản tự khai đề ngày 06/01/2022, bị đơn bà Ngô Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Quá trình quen biết yêu thương nhau và thực hiện đăng ký kết hôn của vợ chồng bà thống nhất như ông D trình bày.

Sau khi kết hôn, vợ chồng ông bà chung sống hạnh phúc, mặc dù có một số mâu thuẫn do bất đồng quan điểm không hợp tính tình nhưng theo bà đó chỉ là những mâu thuẫn nhỏ. Theo bà xác định nguyên nhân dẫn tới ông D làm đơn ly hôn là do bị xúi giục của bạn bè. Bản thân bà thừa nhận ông D sống trong rẫy, bà sống tại nhà chính của vợ chồng tuy nhiên rẫy cách nhà có vài trăm mét, vợ chồng ông bà vẫn qua lại với nhau. Đến nay, bà còn thương chồng, mặt khác con cái đang ở độ tuổi chuẩn bị lập gia đình, rất cần sự quan tâm giúp đỡ của cả mẹ và ba, việc ly hôn của ba mẹ sẽ ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của các con nên bà không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của ông D đề nghị Tòa án hòa giải đoàn tụ cho gia đình bà.

Về con chung: Ông D và bà H chung sống có 02 con chung là cháu Đinh Thị Thùy L, sinh ngày 29/5/1995 và cháu Đinh Thị Minh N, sinh ngày 27/12/2003. Hiện nay các con chung đều đã trưởng thành và có khả năng lao động.

Về tài sản chung và nợ chung: Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai:

- Về việc chấp hành pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Thư ký, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án được thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa các đương sự đều không đến tham dự phiên tòa, nguyên đơn có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai vẫn không có mặt tại phiên tòa nên đề nghị Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự là đúng quy định pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Về quan hệ hôn nhân: Ông Đinh Văn D được ly hôn với bà Ngô Thị H; Về con chung: Con chung hiện nay đã trưởng thành và đủ khả năng lao động; Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết; Về án phí: Buộc ông Đinh Văn D phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu “Ly hôn”, căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ án này là “Ly hôn”. Bị đơn bà Ngô Thị H hiện đang cư trú tại số 3A3, ấp N, xã Quang Trung, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về việc xét xử vắng mặt các đương sự: Tại phiên tòa hôm nay, nguyên đơn, bị đơn đều vắng mặt, nguyên đơn đã có đơn xin xét xử vắng mặt và bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Căn cứ Điều 227, Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự theo quy định.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Ông Đinh Văn D và bà Ngô Thị H tiến tới hôn nhân trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được UBND xã Q, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai cấp giấy chứng nhận đăng ký kết hôn ngày 14/5/1997. Căn cứ các Điều 5, 6, 7, 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986, quan hệ hôn nhân của ông D và bà H là hôn nhân hợp pháp.

Về yêu cầu ly hôn của ông D đối với bà H, Hội đồng xét xử nhận thấy: Qua trình bày của các đương sự tại tòa án cho thấy quá trình chung sống giữa vợ chồng ông D bà H đã để xảy ra mâu thuẫn từ năm 2016, từ đó hai vợ chồng sống ly thân mặc dù cùng địa chỉ tuy nhiên là hai nhà khác nhau.

Theo nguyên đơn, ông D cho rằng tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng đoàn tụ do vợ chồng đã không còn sống chung với nhau trong thời gian dài, không còn sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ và chia sẻ với nhau trong cuộc sống gia đình. Bà H thừa nhận trình trạng hôn nhân có xảy ra mâu thuẫn nhưng cho rằng đó là do ông D bị bạn bè xúi giục nên không đồng ý ly hôn vì cho rằng vẫn còn tình cảm đối với ông D và lo cho cuộc sống sau này của các con.

Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã nhiều lần tổ chức hòa giải để giúp ông bà có cơ hội hàn gắn tình cảm nhưng bà H đều vắng mặt, Bà H cũng không có ý thức hàn gắn hay có biện pháp gì để khắc phục mâu thuẫn vợ chồng đã xảy ra. Cho thấy tình trạng mâu thuẫn vợ chồng của ông D, bà H đã trầm trọng, kéo dài nhưng không có hướng khắc phục, tình cảm vợ chồng không có điều kiện để hàn gắn nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của ông D là phù hợp với quy định tại Điều 51, 56 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[2.2] Về con chung: Vợ chồng ông bà chung sống có 02 con chung là cháu Đinh Thị Thùy L, sinh ngày 29/5/1995 và cháu Đinh Thị Minh N, sinh ngày 27/12/2003. Xét thấy con chung hiện nay đã trưởng thành và có đủ khả năng lao động, các đương sự không yêu cầu gì nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Ông D và bà H đều xác định không yêu cầu Tòa án giải quyết, do vậy Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[3] Về án phí DSST: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[4] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Thống Nhất về đường lối giải quyết vụ án là phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên chấp nhận.

[5] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, 227, 228, 238, 266, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 5, 6, 7, 8, 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986; Khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 57 và Điều 131 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Đinh Văn D về “Ly hôn”, ông Đinh Văn D được ly hôn với bà Ngô Thị H.

2. Về án phí: Ông Đinh Văn D phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được tính trừ vào số tiền tạm ứng án phí ông D đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0003390 ngày 06/12/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai. Ông D đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: Ông Đinh Văn D và bà Ngô Thị H có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

120
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 26/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:26/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thống Nhất - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;