Bản án về ly hôn số 26/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TUYÊN HOÁ, TỈNH QUẢNG BÌNH

BẢN ÁN 26/2022/HNGĐ-ST NGÀY 08/08/2022 VỀ LY HÔN

Trong ngày 08 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Tuyên Hoá, tỉnh Quảng Bình tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 39/2022/TLST - HNGĐ ngày 04/5/2022 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 24/2022/QĐST- DS ngày 21/7/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị V, sinh năm: 1995.

Nơi ĐKNK TT: Xóm 2, xã Hưng Yên B, huyện Hưng Ng, tỉnh Nghệ A (có mặt).

Bị đơn: Anh Nguyễn Lý H, sinh năm: 1991.

Nơi ĐKNKTT: Thôn Kim L, xã Kim H, huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình (có mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 14/4/2021, bản tự khai ngày 30/6/2022 và lời trình bày tại phiên tòa chị Nguyễn Thị Vân kh: Tôi (Nguyễn Thị V) và anh Nguyễn Lý H tìm hiểu và đi đến kết hôn với nhau là hoàn toàn tự nguyện không có ai ép buộc đã đăng ký kết hôn tại UBND xã Kim H, huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình vào ngày 04/3/2016. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại nhà ngoại xóm 2, Hưng Yên B, huyện Hưng Ng, tỉnh Nghệ A. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc đến tháng 7/2019 thì xẩy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh Hùng ngoại tình với người khác rồi đánh đập chị Vân nên vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Anh H về sống cùng gia đình nội tại thôn Kim L, xã K, huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Chị Vân sống tại gia đình ngoại xóm 2, xã Hưng Yên B, huyện Hưng Ng, tỉnh Nghệ A. Chị V thấy thời gian vợ chồng sống ly thân đã lâu mà hai bên không khắc phục được, hiện tình cảm vợ chồng thực sự không còn nữa mâu thuẫn ngày càng trầm trọng nên chị Nguyễn Thị V làm đơn xin ly hôn anh Nguyễn Lý H.

Bản tự khai ngày 03/6/2022 và lời trình bày của anh Nguyễn Lý H tại phiên tòa anh Nguyễn Lý H khai: Tôi (Nguyễn Lý H) đồng ý quá trình tìm hiểu và đăng ký kết hôn đúng như bản tự khai và lời trình bày của chị Nguyễn Thị V. Sau khi kết hôn anh H đi xuất khẩu lao động tại Malaixia còn chị Vân sống tại nhà ngoại. Vợ chồng sống hạnh phúc khoảng một năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do anh H sau khi đi xuất khẩu lao động trở về thì giữa anh H và ông ngoại (bố chị V) xẩy ra mâu thuẫn không cho anh H đến thăm con, nên giữa vợ chồng xẩy ra bất đồng dẫn đến mâu thuẩn nên hai bên đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay. Anh H thấy tình cảm vợ chồng vẫn còn, mâu thuẫn có thể khắc phục được nên không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị Nguyễn Thị V.

Về con chung: Chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Lý H đều thừa nhận vợ chồng có một đứa con chung tên là: Nguyễn Tất Th, sinh ngày 21/7/2016 từ khi vợ chồng sống ly thân đến nay con ở với chị V. Nguyện vọng của chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Lý H sau khi ly hôn cả hai bên xin được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu đóng góp tiền nuôi con hàng tháng.

Về tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng: Chi Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Lý H hai bên tự nguyện thỏa thuận tự phân chia không yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết.

Án phí chị Nguyễn Thị V đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số: 0000078 ngày 27/4/2022 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa nay xin chịu toàn bộ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị Nguyễn Thị V trú tại xóm 2, xã Hưng Yên B, huyện Hưng Ng, tỉnh Nghệ A xin ly hôn anh Nguyễn Lý H có hộ khẩu thường tại thôn Kim L, xã Kim H, huyện Tuyên H, tỉnh Quảng Bình. Quá trình giải quyết hai bên tự nguyện thỏa thuân tự phân chia tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về quan hệ hôn nhân chị Nguyễn Thị V giữ nguyên yêu cầu xin được ly hôn, anh Nguyễn Lý H không nhất trí ly hôn. Con chung của vợ chồng chị V và anh H đều có nguyện vọng xin được nuôi con và không yêu cầu bên không trực tiếp nuôi con phải đóng góp tiền nuôi con hàng tháng vì vậy Tòa án phải đưa ra vụ án ra xét xử theo quy định của pháp luật.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Lý H tìm hiểu để đi đến kết hôn là do hai bên hoàn toàn tự nguyện, không có ai ép buộc đã đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nên đây là cuộc hôn nhân hợp pháp, nhưng trong quá trình chung sốngvợ chồng bất đồng quan điểm mà không tự khắc phục được để kéo dài dẫn đến mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Vợ chồng đã sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay hai bên bỏ mặc không quan tâm đến nhau nữa. Quá trình hòa giải chị Nguyễn Thị V tha thiết xin được ly hôn vì tình cảm vợ chồng thực sự không còn nữa, mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng mà không thể khắc phục được. Anh Nguyễn Lý H thấy tình cảm vợ chồng đang còn, mâu thuẫn có thể khắc phục được nên mong muốn vợ chồng trở về chung sống xây dựng gia đình hạnh phúc và nuôi con. Tại phiên tòa hôm nay chị V giữ nguyên nguyện vọng xin được ly hôn. Anh Nguyễn Lý H cũng hoàn toàn đồng ý ly hôn.Hội đồng xét xử thấy nguyện vọng của cả hai nên là tự nguyện thỏa thuận bởi tình cảm vợ chồng thực sự không còn nữa, mâu thuẩn đã đến mức trầm trọng mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy áp dụng Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình để công nhận sự tự nguyện thỏa thuậngiữa chị Nguyễn Thị V anhNguyễn Lý H được ly hôn.

[3] Về con chung của vợ chồng: Chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Lý H đều thừa nhận vợ chồng có một đứa con chung tên là Nguyễn Tất Th, sinh ngày 21/7/2016. Từ ngày vợ chồng sống ly thân con ở với chị V, nguyện vọng của chị V và anh H đều có nguyện vọng xin được nuôi con. Hội đồng xét xử thấy nguyện vọng của cả hai bên là toàn toàn chính đáng, nhưng từ khi vợ chồng sống ly thân con ở với chị Vân, nên con đã quen với môi trường và điều kiện sống. Mặt khác con đang còn nhỏ cần sự chăm sóc của người mẹ, để giữ ổn định tâm lý cho con nên giao cho chị Vân được tiếp tục trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng con thì phù hợp. Vì vậy cần áp dụng các Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình giao con Nguyễn Tất Th, sinh ngày: 21/7/2016 cho chị Nguyễn Thị V trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi con khôn lớn, trưởng thành.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Mặc dù chị Vân không yêu cầu anh H phải đóng góp tiền nuôi con hàng tháng, nhưng để bảo đảm quyền lợi cho con và nghĩa vụ của cha mẹ sau khi ly hôn nên buộc anh Nguyễn Lý H phải đóng góp tiền nuôi con hàng tháng theo quy định của pháp luật.Vì vậy áp dụng các Điều 107, Điều 110 và Điều 116 luật hôn nhân và gia đình buộc anh Nguyễn Lý H phải đóng góp tiền nuôi con hàng tháng mổi tháng 1.500.000đ cho đến lúc con đủ 18 tuổi. Thời gian tính từ tháng 9/2022 Chị Nguyễn Thị V không được ngăn cản việc đi lại chăm sóc con chung đối với anh Nguyễn Lý H trường hợp cần thiết vì quyền lợi của con anh Nguyễn Lý H có quyền làm đơn yêu cầu Tòa án thay đổi người trực tiếp nuôi con .

[4] Về tài sản chung và công nợ chung của vợ chồng: Chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Lý H tự nguyện thỏa thuận tự phân chia không không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị V đã nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm theo biên lai số: 0000078 ngày 27/4/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa nay phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm.

Án phí cấp dưỡng nuôi con anh Nguyễn Lý H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị V đối với anh Nguyễn Lý H.

1.Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình: Công nhận sự tự nguyện thỏa thuận ly hôn Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Lý H.

2. Về con chung của vợ chồng: Áp dụng các Điều 81, Điều 82, Điều 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình giao con Nguyễn Tất Th, sinh ngày: 21/7/2016 cho chị Nguyễn Thị V trực tiếp chăm sóc và nuôi dưỡng cho đến khi con khôn lớn, trưởng thành.

3. Về nghĩa vụ cấp dưỡng: Áp dụng các Điều 107, Điều 110 và Điều 116 luật hôn nhân và gia đình buộc anh Nguyễn Lý H phải đóng góp tiền nuôi con hàng tháng, mỗi tháng 1.500.000đ (một triệu năm trăm nghìn đồng) cho đến lúc con đủ 18 tuổi. Thời gian tính từ tháng 9/2022.

Chị Nguyễn Thị V không được ngăn cản việc đi lại chăm sóc con chung đối với anh Nguyễn Lý H, trường hợp cần thiết vì quyền lợi của con anh Nguyễn Lý H có quyền làm đơn yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con .

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

4. Về tài sản và công nợ chung của vợ chồng: Chị Nguyễn Thị V và anh Nguyễn Lý H thỏa thuận tự phân chia không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

5. Về án phí ly hôn: Chị Nguyễn Thị V phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm. Được khấu trừ vào số tiền mà chị Vân đã nộp tạm ứng án phí số tiền 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai số 0000078 ngày 27/4/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình. Như vậy chị Nguyễn Thị V đã nộp đủ án phí.

Án phí cấp dưỡng nuôi con: Anh Nguyễn Lý H phải chịu 300.000đ (ba trăm nghìn đồng).

Án xử công khai sơ thẩm có mặt hai bên đương sự. Tuyên bố hai bên có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ tuyên án sơ thẩm (08/8/2022) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình xét xử phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

149
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 26/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:26/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tuyên Hóa - Quảng Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 08/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;