Bản án về ly hôn số 25/2022/HNGĐ-ST

A ÁN NHÂN DÂN HUYỆN K, TỈNH NINH BÌNH

BẢN ÁN 25/2022/HNGĐ-ST NGÀY 28/06/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 28 tháng 6 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Ninh Bình xét xử công khai vụ án thụ lý số 77/2022/TLST - HNGĐ ngày 08 tháng 4 năm 2022 về “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 26/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 26 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Phạm Thị Q, sinh năm 1971; ĐKHKTT: xóm 10, xã Y, huyện K, tỉnh Ninh Bình; Hiện cư trú tại: xóm 1, xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình ( vắng mặt có đơn xin xét xử vắng mặt) - Bị đơn: Anh Trương Văn T ( Trương Toàn T ), sinh năm 1969; ĐKHKTT và trú tại: xóm 10, xã Y, huyện K, tỉnh Ninh Bình ( có mặt )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Về phía nguyên đơn chị Phạm Thị Q trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án trình bày:

Chị và anh Trương Văn T kết hôn trên cơ sở tự do tìm hiểu có đăng ký kết hôn năm 1996 tại UBND xã K, huyện K, là quê của chị. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại nhà bố mẹ đẻ của anh T ở xóm 10, xã Y. Vợ chồng chung sống hòa thuận được một thời gian ngắn sau đó phát sinh mâu thuẫn, vì mâu thuẫn nên chị và anh T đã sống ly thân.

Theo chị Q nguyên nhân dẫn đến việc vợ chồng chị phát sinh mâu thuẫn là do anh T rượu chè, say xỉn, thường xuyên chửi bới, đánh đập chị. Chị và gia đình đã nhiều lần khuyên giải nhưng anh T không thay đổi. Bản thân chị vì con cái nên chấp nhận chung sống. Thời gian gần đây, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng nặng nề, chị không thể chịu đựng được nữa nên đã về nhà bố mẹ đẻ tại xóm 1, xã K để sinh sống, ly thân với anh T. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục chung sống với nhau được nữa. Chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh T để ổn định cuộc sống Về con chung : Chị và anh T có 2 con chung là Trương Thị H, sinh năn 1991 và Trường Thành N, sinh năm 1995, đều đã thành niên, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết Về tài sản chung: chị và anh T không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết

Về phía bị đơn anh Trương Văn T trong bản tự khai ngày 29/4/2022 và quá trình giải quyết vụ án trình bày:

Về thời gian, điều kiện kết hôn, anh nhất trí như chị Q đã nêu. Quá trình chung sống, anh thường phải đi làm ăn xa, kiếm tiền trang trải cuộc sống gia đình. Trong khi đó chị Q ở nhà nhưng không chăm lo cuộc sống gia đình, thường về nhà ngoại thời gian dài mà không nói với anh. Bản thân anh vì con cái nên chấp nhận bỏ qua nhiều năm nay. Thời gian gần đây chị Q thường có thái độ không tôn trọng anh, trong gia đình đã họp bàn hòa giải, khuyên giải nhưng chị Q không thay đổi.

Nay chị Q yêu cầu ly hôn với anh thì anh đề nghị Tòa án giải quyết đơn phương ly hôn vì anh còn bận đi làm ăn, không thể đến Tòa án làm việc được, chị Q muốn quay về thì phảo thay đổi, xin lỗi anh thì anh mới chấp nhận.

Về con chung và tài sản chung: Anh T cũng xác định vợ chồng có 2 con chung là Trương Thị H, sinh năn 1991 và Trường Thành N, sinh năm 1995, đều đã thành niên, anh không yêu cầu Tòa án giải quyết Về tài sản chung: Anh T không yêu cầu Tòa án giải quyết Tại phiên tòa, anh T đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết cho anh và chị Q ly hôn vì chị Q đã kiên quyết ly hôn, anh không thể níu kéo chị Q được nữa Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K về tố tụng: nguyên đơn và những người tiến hành tố tụng đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; Bị đơn thực hiện tương đối đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện K về nội dung: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56 Luật HNGĐ; Điều 147, 228 BLTTDS; Nghị quyết số 326/2016/NQUBTVQH14. Xử ly hôn giữa chị Phạm Thị Q và anh Trương Văn T; Về án phí: Chị Q phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả hỏi tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết: Chị Phạm Thị Q khởi kiện yêu cầu giải quyết việc ly hôn và tranh chấp nuôi con chung khi ly hôn với anh Trương Văn T ( Trương Toàn T ), cư trú tại xóm 10, xã Y, huyện K, tỉnh Ninh Bình; căn cứ quy định tại điều 28 và 39 BLTTDS vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND huyện K.

Nguyên đơn chị Phạm Thị Q đã được tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, căn cứ Điều 228 BLTTDS Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Q và anh Trương Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn năm 1996 tại UBND xã K, huyện K, tỉnh Ninh Bình là hôn nhân hợp pháp theo quy định tại Điều 9 Luật HNGĐ. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hòa thuận một thời gian thì mới phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn theo chị Q xác định do anh T rượu chè, say xỉn, thường vô cớ chửi bới, đánh đập chị, chị đã nhiều lần khuyên giải nhưng anh T không thay đổi. Thời gian gần đây mâu thuẫn vợ chồng nặng nề, chị không thể chịu đựng được nữa nên đã về quê tại xóm 1, xã K để sinh sống, ly thân với anh T.

Về phía anh T, anh cho rằng việc vợ chồng phát sinh mâu thuẫn là do trong khi anh phải đi làm ăn xa kiếm tiền trang trải cuộc sống gia đình thì chị Q ở nhà nhưng không chăm lo cuộc sống gia đình mà thường về nhà ngoại thời gian dài không nói với anh. Vì con cái nên anh bỏ qua chấp nhận nhiều năm nay. Đến nay chị Q yêu cầu ly hôn thì anh nhất trí ly hôn, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết Xác minh tình trạng hôn nhân của chị Q và anh T tại UBND xã Y là nơi anh chị cư trú; thì chính quyền địa phương xác nhận do mâu thuẫn vợ chồng nên thời gian gần đây chị Q, anh T không còn chung sống với nhau nữa, về nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn thì địa phương không nắm rõ do anh T và chị Q chưa hòa giải tại cơ sở.

Như vậy mặc dù hai bên trình bày nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn là khác nhau nhưng cả chị Q và anh T đều xác định vợ chồng anh chị phát sinh mâu thuẫn từ lâu, đã nhiều lần hòa giải nhưng không có kết quả, cả hai đều vì con cái nên anh chị chấp nhận chung sống với nhau. Đến nay cả chị Q và anh T đều không có biện pháp hàn gắn tình cảm vợ chồng, chị Q yêu cầu ly hôn, anh T cũng nhất trí.

Từ những phân tích nêu trên đã có đủ cơ sở xác định tình trạng hôn nhân của chị Q, anh T hiện nay đã trầm trọng, mâu thuẫn không thể khắc phục, mục đích hôn nhân không đạt được, không thể duy trì cuộc sống chung; căn cứ quy định tại Điều 51, 56 Luật Hôn nhân gia đình, yêu cầu của chị Q giải quyết ly hôn anh T là có căn cứ được chấp nhận.

[3] Về quan hệ con chung : Chị Phạm Thị Q và anh Trương Văn T đều xác nhận vợ chồng có 2 con chung là Trương Thị H, sinh năn 1991 và Trường Thành N, sinh năm 1995, đều đã thành niên, chị không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét

[4] Về tài sản chung: Chị Phạm Thị Q và anh Trương Văn T đều không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về án phí: Căn cứ quy định tại điều 147 BLTTDS và Nghị quyết 326/2016/NQ-UBTVQH14 buộc chị Quyên phải nộp án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56 Luật HNGĐ; Điều 147, 228 BLTTDS và Nghị quyết 326/2016/NQUBTVQH14 quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Xử ly hôn giữa chị Phạm Thị Q và anh Trương Văn T ( Trương Toàn T)

2. Về án phí: Chị Phạm Thị Q phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được khấu trừ vào số tiền 300.000đ tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số AA4562 ngày 08/4/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K.

Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai đương sự có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

12
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 25/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:25/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Khánh - Ninh Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 28/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;