Bản án về ly hôn số 24/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THANH SƠN, TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 24/2022/HNGĐ-ST NGÀY 22/07/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 22 tháng 7 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 87/2022/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 4 năm 2022 về việc: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 34/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2022 và quyết định hoãn phiên tòa số 30/2022/QĐST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đinh Thị N – Sinh năm 1993 Địa chỉ: Xóm Hắm, xã Khả Cửu, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ

Bị đơn: Anh Đinh Xuân H – Sinh năm 1993 Địa chỉ: Khu L, xã H, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ (Chị N có đơn xin xử vắng mặt, anh H vắng mặt không có lý do).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện, bản tự khai, biên bản lấy lời khai, quá trình tố tụng việc tại Tòa án nguyên đơn chị Đinh Thị N có quan điểm như sau:

Về quan hệ hôn nhân :Chị Đinh Thị N và anh Đinh Văn Hiệp tự nguyện tìm và chung sống cùng nhau từ năm 2017 tại nhà bố mẹ anh H, địa chỉ xã Hương Cần, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Đến tháng 8 năm 2020, làm thủ tục đăng ký kết hôn tại UBND xã Hương Cần, huyện Thanh Sơn, tỉnh Phú Thọ. Trong quá trình chung sống do công việc, vợ chồng làm việc không cùng nơi, thời gian dành cho nhau không nhiểu nên tình cảm dần phai nhạt. Mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ đó. Anh H đôi lúc đánh, sỉ nhục chị và con chung không có nên vợ chồng dần mất tình cảm với nhau. Chị nhận thấy trong thời gian chgung sống cùng anh H chị luôn bị anh H gây áp lực cả về thể xác lẫn tinh thần nên cuộc sống vợ chồng không có hạnh phúc. Vợ chồng chị đã sống ly thân từ tháng 7/2021 cho đến nay. Xác định tình cảm vợ chồng đã hết, hôn nhân không hạnh phúc không thể kéo dài hơn nữa. chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn anh H để giải phóng cho cả hai.

Về con chung, tài sản chung, công nợ và công sức đóng góp: Chị N xác định không có.

Bị đơn anh Đinh Xuân H trình bày tại bản tự khai và biên bản hòa giải như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Anh H xác nhận ý kiến của Chị N về thời gian chung sống và thời điểm kết hôn, nơi đăng ký kết hôn là đúng như Chị N đã trình bày. Trong quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc được 03 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn, theo anh H, bắt đầu từ ngày 20/7/2021, anh phát hiện Chị N ngoại tình với người đàn ông khác nhưng anh không biết tên, địa chỉ cụ thể. Anh đã khuyên nhủ và tha thứ cho vợ để vợ chồng đoàn tụ cùng nhau xây dựng cuộc sống hôn nhân bền vững, hạnh phúc nhưng Chị N vẫn không về và vợ chồng ly thân từ đó cho đến nay. Tuy sống ly thân nhưng vợ chồng vẫn thường xuyên hỏi han nhau về sức khỏe. Anh xác định vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn và tình cảm anh giành cho Chị N vẫn còn nên anh không đồng ý ly hôn. Đề nghị Tòa án hòa giải để vợ chồng anh trở về đoàn tụ.

Về con chung, taì sản chung, công nợ và công sức đóng góp: Anh xác định không có gì.

* Quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán và HĐXX: Quá trình thụ lý, giải quyết vụ án Thẩm phán đã thực hiện đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa thực hiện đúng quy định của pháp luật, không có vi phạm gì.

Các đương sự: Nguyên đơn đã chấp hành đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn chấp hành chưa nghiêm túc qui định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung vụ án: Áp dụng khoản Điều 56- Luật hôn nhân và gia đình 2014.

Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đinh Thị N được ly hôn anh Đinh Xuân Hiệp.

Con chung, tài sản, công sức: Các đương sự đều xác nhận không có nên không xem xét giải quyết.

Về án phí: Chị N phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng: Chị N và anh H đều có nơi ĐKNKTT và cư trú tại huyện Thanh Sơn. Tỉnh Phú Thọ. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35- BLTTDS, Tòa án nhân dân huyện Thanh Sơn thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền.

Xét về sự vắng mặt của các đương sự: Ngày 16/5/2022, chị Đinh Thị N nộp đơn đề nghị xét xử vắng mặt tại Tòa án. Anh Đinh Xuân H được triệu tập hợp lệ lần thứ 2 nhưng vẫn cố tình vắng mặt. Căn cứ khoản 1+ 3 Điều 228; Điều 238- Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2]. Về nội dung vụ án: Những phân tích , đánh giá về tình trạng hôn nhân và các quan hệ khác trong vụ án của Kiểm Sát Viên tại phiên tòa là có căn cứ bởi lẽ: Quan hệ hôn nhân của anh chị là hợp pháp được chứng minh tại bản đăng kí kết hôn số 23, ngày 21/8/2020 (BL11) do UBND xã Hương Cần, huyện Thanh Sơn cấp. Quá trình chung sống cả hai vợ chồng không cùng nhau vun đắp xây dựng mối quan hệ hôn nhân của mình bền vững, hạnh phúc mà cả hai đều có ý thức buông xuôi khi mâu thuẫn vợ chồng phát sinh khiến tình cảm vợ chồng ngày càng phai nhạt và kết quả quan hệ hôn nhân đó đã bị đổ vỡ.

Về mâu thuẫn vợ chồng: Xem xét lời khai của Chị N và anh H và kết quả xác minh tại địa phương đã chứng minh: Cả Chị N và anh H đều xác nhận vợ chồng chỉ sống hòa thuận thời gian đầu khi chưa đăng ký kết hôn và khoảng 01 năm sau khi kết hôn. Theo Chị N, nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn vợ chồng dẫn đến chị phải đơn phương xin ly hôn anh H là do anh H hay ghen tuông, đôi lúc đánh và sỉ nhục chị. Chị N nhận thấy cuộc sống vợ chồng chỉ gây áp lực cho nhau, không có hạnh phúc nên khó có con. Mặt khác vợ chồng thường xuyên sống xa nhau nên tình cảm vợ chồng phai nhạt dần theo thời gian, thực tế vợ chồng đã sống ly thân mỗi người một nơi từ tháng 7 năm 2021 đến nay, không quan tâm gì đến cuộc sống của nhau nữa.

Anh H xác nhận vợ chồng phát sinh mâu thuẫn từ tháng 7/2021, nguyên nhân do chị Ngoại sống không chung thủy, ngoại tình với người khác. Nhưng anh H cho rằng mâu thuẫn xảy ra giữa vợ chồng anh không lớn chưa đến mức phải ly hôn nên anh không đồng ý ly hôn. HĐXX xét thấy: Mặc dù Chị N và anh H có quan điểm nhận thức về mâu thuẫn vợ chồng khác nhau nhưng cả hai đều xác nhận mâu thuẫn vợ chồng anh chị thực tế đã xảy ra mà cả hai bên đã tìm cách khắc phục để vợ chồng đoàn tụ nhưng không có kết quả. Sự xác nhận của các đương sự phù hợp với kết quả xác minh của Tòa án tại địa phương nơi các đương sự cư trú (BL32). Như vậy đủ căn cứ chứng minh trong cuộc sống chung anh H thường xuyên có hành vi bạo lực với Chị N, gây ra những tổn thương, áp lực về tinh thần cho Chị N một thời gian dài nên chị kiên quyết xin ly hôn để giải phóng cho chị. Phía anh H không đồng ý ly hôn nhưng anh không có biện pháp tích cực nào để hóa giải mâu thuẫn vợ chồng mà có ý thức bỏ mặc kể từ khi vợ chồng sống ly thân. Điều đó chứng tỏ yêu cầu xin đoàn tụ của anh H là không có thiện chí muốn xây dựng mối quan hệ hôn nhân hạnh phúc, bền vững cùng Chị N. Tại khoản 1 Điều 56- Luật hôn nhân và gia đình qui định “ Khi vợ hoặc chồng có yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng…”. Như vậy đủ cơ sở kết luận: Mâu thuẫn giữa vợ chồng Chị N, anh H thực tế đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của Chị N đối với anh H là có căn cứ quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3]. Các quan hệ con chung; Tài sản; Công sức: Chị Đinh Thị N và anh Đinh Xuân H đều xác nhận không có HĐXX không xem xét.

[4]. Về án phí: Chị N phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56- Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; khoản 4 Điều 147, khoản 1+3 Điều 228 , Điều 238 của Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Đinh Thị N. Cho chị Đinh Thị Ngoan được ly hôn anh Đinh Xuân H.

2. Về án phí: Chị Đinh Thị N phải nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí Hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Chuyển 300.000 (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí Chị N đã nộp tại Biên lai thu số AA/2020/0006788 ngày 27/4/2022 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Thanh Sơn thành án phí.

Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại trụ sở UBND nơi các đương sự cư trú để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ xét xử phúc thẩm.

"Trong trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a, 7b và 9 luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

315
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 24/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:24/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thanh Sơn - Phú Thọ
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;