Bản án về ly hôn số 23/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BĐ, TỈNH BẾN TRE

BẢN ÁN 23/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ LY HÔN

Trong ngày 14 tháng 4 năm 2022, tại Hội trường xét xử của Toà án nhân dân huyện BĐ, tỉnh Bến Tre xét xử sơ thẩm công khai theo thủ tục thông thường vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 317/2021/TLST-HNGĐ, ngày 31 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/QĐXXST-HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 06/2022/QĐST-HNGĐ ngày 21 tháng 3 năm 2022, giữa các đương sự:

Ngun đơn: Lê Hồng G, sinh năm 1992. (Có mặt).

Địa chỉ: Ấp Hưng Chánh, xã Châu Hưng, huyện BĐ, tỉnh Bến Tre.

Chị G có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt ngày 15 tháng 02 năm 2022.

Bị đơn: Nguyễn Văn T, sinh năm 1990. (Vắng mặt).

Địa chỉ: Ấp Phú Thạnh, xã PT, huyện BĐ, tỉnh Bến Tre.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 15/11/2021, bản tự khai ngày 17/01/2022; Những lời khai tiếp theo trong quá trình tố tụng, nguyên đơn Lê Hồng G trình bày:

Chị Lê Hồng G và anh Nguyễn Văn T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2020, hai bên có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã PT, huyện BĐ, tỉnh Bến Tre. Sau khi cưới, vợ chồng chung sống có hạnh phúc, đến tháng 8/2020, vợ chồng bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, tính cách, lối sống không hòa hợp, vợ chồng thường xuyên cự cãi nhau. Anh T không lo làm ăn, xây dựng gia đình, chỉ lo ăn chơi, cờ bạc, gây nợ, làm được bao nhiêu tiền chỉ lo tiêu xài cá nhân. Ngoài ra, anh T có mối quan hệ với người phụ nữ khác, về nhà thường xuyên chửi mắng chị G. Chị G cố gắng hàn gắn, thuyết phục anh T để xây dựng lại hạnh phúc gia đình nhưng không có kết quả, từ đó dẫn đến T cảm vợ, chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng.

Hiện tại, chị Lê Hồng G không còn T cảm vợ chồng với anh Nguyễn Văn T nữa nên yêu cầu Tòa án nhân dân huyện BĐ giải quyết những vấn đề sau đây: Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Nguyễn Văn T. Về con chung: Không có.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có.

Trong suốt quá trình tố tụng, Tòa án tống đạt thông báo thụ lý vụ án, giấy triệu tập và các văn bản tố tụng khác hợp lệ nhưng anh Nguyễn Văn T vắng mặt không có lý do trong các phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận công khai chứng cứ, hòa giải cũng như vắng mặt tại phiên tòa, từ chối tham gia tố tụng, bất hợp tác với Tòa án, đồng thời cũng không cung cấp tài liệu, chứng cứ và ý kiến gì thể hiện quan điểm trong vụ án ly hôn giữa chị Lê Hồng G với anh Nguyễn Văn T.

* Ý kiến phát biểu của Viện kiểm sát về việc tuân theo pháp luật tố tụng và quan điểm giải quyết vụ án:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự:

Thẩm phán thực hiện đúng theo quy định tại Điều 203 Bộ luật tố tụng dân sự, xác định đúng quan hệ tranh chấp và thực hiện đúng các quy định của pháp luật về việc xác định đúng tư cách pháp lý của những người tham gia tố tụng.

Hội đồng xét xử và Thư ký đã tuân theo đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ đúng theo qu định tại Điều 70, 71 Bộ luật tố tụng dân sự. Riêng bị đơn Nguyễn Văn T không chấp hành theo giấy triệu tập của Tòa án, vắng mặt tại phiên tòa là vi phạm Điều 70, Điều 72 Bộ luật tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án:

Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 51, 53, 56, 57 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Điều 147, Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Lê Hồng G với anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Chị Lê Hồng G khai không có, anh Nguyễn Văn T không cung cấp lời khai, ý kiến hay yêu cầu gì nên không xem xét, giải quyết Về tài sản chung, nợ chung: Chị Lê Hồng G khai không có, anh Nguyễn Văn T không cung cấp lời khai, ý kiến hay yêu cầu gì nên không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng:

Bị đơn Nguyễn Văn T đã được tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do nên Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn T là phù hợp với quy định tại Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự.

Xét yêu cầu của nguyên đơn Lê Hồng G và đề nghị của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[2] Về quan hệ hôn nhân:

Chị Lê Hồng G và anh Nguyễn Văn T tự nguyện chung sống với nhau vào năm 2020, hai bên có đăng ký kết hôn theo luật định nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống, thời gian đầu có hạnh phúc. Đến tháng 8/2020, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn trầm trọng, không hàn gắn được, ai cũng có cuộc sống riêng và không quan tâm gì đến nhau. Trong quá trình tố tụng, Tòa án triệu tập chị Lê Hồng G và anh Nguyễn Văn T để tiến hành hòa giải, tạo điều kiện hàn gắn cuộc sống vợ chồng. Tuy nhiên, anh T từ chối tham gia tố tụng, không có thiện chí đến Tòa để tham gia hòa giải và đoàn tụ. Điều đó chứng tỏ quan hệ hôn nhân giữa chị G với anh T đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, yêu cầu ly hôn của chị G là có cơ sở phù hợp với Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên được chấp nhận.

[3] Về con chung: Chị Lê Hồng G khai không có, anh Nguyễn Văn T không cung cấp lời khai, ý kiến hay yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Chị Lê Hồng G khai không có, anh Nguyễn Văn T không cung cấp lời khai, ý kiến hay yêu cầu gì nên không xem xét giải quyết. [5] Đối với phát biểu ý kiến của Kiểm sát viên về việc giải quyết vụ án là có cơ sở, phù hợp với quy định của pháp luật và nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Về án phí: Căn cứ theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án. Chị Lê Hồng G phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các điều 51, 53, 56, 57 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều 147, Điều 227, Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn của chị Lê Hồng G đối với anh Nguyễn Văn T.

Cho ly hôn giữa chị Lê Hồng G với anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Không có nên không xem xét, giải quyết.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không xem xét giải quyết.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm:

Chị Lê Hồng G phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị G đã nộp là 600.000 đồng (Sáu trăm nghìn đồng) theo hai biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003486 ngày 31/12/2021; 0005982 ngày 08/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện BĐ, tỉnh Bến Tre.

Vậy, hoàn lại cho chị Lê Hồng G số tiền chênh lệch còn lại là 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

Nguyên đơn Lê Hồng G có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng bị đơn Nguyễn Văn T vắng mặt tại phiên tòa, được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày, kể từ ngày nhận được bản án, hoặc bản án được tống đạt hợp lệ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 23/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:23/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Đại - Bến Tre
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;