Bản án về ly hôn số 210/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN T, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 210/2021/HNGĐ-ST NGÀY 29/09/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 29 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 235/2021/TLST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2021 về việc “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 200/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 9 năm 2021 và Quyết định hoãn phiên toà số 201/2021/QĐST-HNGĐ ngày ngày 20 tháng 9 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Phạm Thị T (tên gọi khác Phạm Thị Ngọc T), sinh năm 1979; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 9, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; địa chỉ hiện nay: Thôn 1, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Ông Lê Văn H (tên gọi khác Lê Thế H), sinh năm 1971; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 9, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; địa chỉ hiện nay: Thôn 1, xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện đề ngày 20/3/2021 và các lời khai tại Tòa án, nguyên đơn là bà Phạm Thị T trình bày:

1. Về hôn nhân: Bà Phạm Thị T và ông Lê Văn H kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 08 ngày 28/02/1997 tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện T, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn vợ chồng ông bà chung sống với nhau tại thôn 1, xã L. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng, đến năm 2019 thì mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng, trầm trọng. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hoà hợp, bất đồng quan điểm trong việc làm ăn kinh tế, vợ chồng không có tiếng nói chung. Do mâu thuẫn bà T và ông H đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Bà T nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ nên đề nghị Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông Lê Văn H.

2. Về con chung: Bà T trình bày bà và ông H có hai con chung là Lê Thế Hoàng, sinh ngày 25/02/1997 và Lê Ngọc Anh, sinh ngày 10/4/1999. Hiện nay các con đã trưởng thành, có khả năng lao động nên bà T không yêu cầu Toà án giải quyết.

3. Về tài sản chung: Bà T trình bày bà và ông H có tài sản chung nhưng để ông bà tự thỏa thuận phân chia, bà T không yêu cầu Toà án giải quyết khi ly hôn.

Ông Lê Văn H là bị đơn, trong quá trình giải quyết vụ án ông H đã nhận được thông báo thụ lý vụ án, thông báo hoà giải và các văn bản giấy khác của Toà án nhưng vẫn không có ý kiến về việc bà Phạm Thị T có đơn xin ly hôn.

Tại phiên toà Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên toà trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn bà Phạm Thị T đã chấp hành đúng quy định pháp luật tố tụng dân sự; bị đơn ông Lê Văn H đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng vẫn vắng mặt.

Về việc giải quyết vụ án, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

Về hôn nhân: Cho bà Phạm Thị T được ly hôn ông Lê Văn H; về con chung, tài sản chung không có yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét giải quyết; nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, các quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện T,thành phố Hải Phòng theo quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn bà Phạm Thị T vắng mặt tại phiên tòa và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn ông Lê Văn H đã được Toà án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai nhưng vắng mặt. Căn cứ Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặT đơn, bị đơn.

[2]. Về hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa bà Phạm Thị T và ông Lê Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã L theo Giấy chứng nhận kết hôn số 08 ngày 28/02/1997 là hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi mắng nhau, nguyên nhân do tính tình vợ chồng không hoà hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, vợ chồng không thống nhất trong làm ăn kinh tế. Từ năm 2019 đến nay bà T và ông H đã sống ly thân, không còn quan tâm đến nhau. Nay vợ chồng không còn tình cảm, bà T đề nghị Toà án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H. Tài liệu xác minh thể hiện mâu thuẫn giữa bà T và ông H đã kéo dài và trầm trọng. Bà T xác định tình cảm không còn và xin ly hôn với ông H. Quá trình giải quyết ông H không có ý kiến gì. Vì vậy căn cứ vào Điều 51 và Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho bà Phạm Thị T được ly hôn ông Lê Văn H.

[3]. Về con chung: Bà Phạm Thị T và ông Lê Văn H có hai con chung là Lê Thế Hoàng, sinh ngày 25/02/1997 và Lê Ngọc Anh, sinh ngày 10/4/1999. Hiện nay các con đã trưởng thành, có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[4]. Về tài sản chung: Bà T trình bày bà và ông H có tài sản chung nhưng để ông bà tự thỏa thuận phân chia, bà T không yêu cầu Toà án giải quyết khi ly hôn. Mặt khác chưa có lời khai của ông H nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này.

[5]. Về án phí: Căn cứ Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; bà Phạm Thị T phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

[6]. Về quyền kháng cáo: Bà Phạm Thị T và ông Lê Văn H có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội; Xử:

1. Về hôn nhân: Cho bà Phạm Thị T được ly hôn ông Lê Văn H.

2. Về con chung: Bà Phạm Thị T và ông Lê Văn H có hai con chung là Lê Thế Hoàng, sinh ngày 25/02/1997 và Lê Ngọc Anh, sinh ngày 10/4/1999. Hiện nay các con đã trưởng thành, có khả năng lao động nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

3. Về tài sản chung: Bà Phạm Thị T không yêu cầu Toà án giải quyết. Mặt khác chưa có lời khai của ông Lê Văn H nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này.

4. Về án phí: Bà Phạm Thị T phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn, được trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0015937 ngày 16 tháng 6 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T, thành phố Hải Phòng. Bà Phạm Thị T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo: Bà Phạm Thị T, ông Lê Văn H vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

6. Trường hợp quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

170
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 210/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:210/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 29/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;