Bản án về ly hôn số 198/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 198/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/11/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 11 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 183/2021/TLST- HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2021 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 329/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 11 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Th, sinh năm 1996; nơi cư trú: Thôn Bạch M, xã Đồng Th, huyện An D, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Phạm Văn Qu, sinh năm 1995; nơi ĐKHKTT: Thôn Hoàng L, xã Hồng Ph, huyện An D, thành phố Hải Phòng; nơi sinh sống: 2-Chome-4-5 Asahidori, C, Nhật Bản; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và bản tự khai nguyên đơn chị Nguyễn Thị Th trình bày:

Chị và anh Phạm Văn Qu kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 19 tháng 02 năm 2020 tại Ủy ban nhân dân xã Hồng Phong, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống cùng nhau ở Việt Nam được một thời gian thì anh Qu sang Nhật Bản để tiếp tục du học. Thời gian vợ chồng xa cách đã xảy ra nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, không tìm được tiếng nói chung, không thể cảm thông, chia sẻ với nhau. Chị và anh Qu đã cố gắng hàn gắn tình cảm, hai bên gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Đến thời gian gần đây, chị và anh Qu không còn tình cảm và không quan tâm đến nhau. Nay, chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn giữa chị và anh Qu đã trầm trọng, không có khả năng đoàn tụ nên chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Phạm Văn Qu.

Về con chung: Chị và anh Qu không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị và anh Qu không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Trong văn bản trình bày ý kiến của bị đơn gửi cho Tòa án, anh Phạm Văn Qu trình bày:

Anh thống nhất về quá trình kết hôn cũng như mâu thuẫn vợ chồng giữa anh và chị Th. Anh nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn do cuộc sống hôn nhân xảy ra nhiều mâu thuẫn không thể giải quyết nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn với chị Nguyễn Thị Th. Về con chung: Anh và chị Th không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về tài sản chung: Anh và chị Th không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Do anh Phạm Văn Qu đang ở nước ngoài; chị Th và anh Qu đều đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải nên căn cứ khoản 2, khoản 4 Điều 207 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án không tiến hành hòa giải vụ án.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Th và bị đơn anh Phạm Văn Qu đều vắng mặt và đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi xem xét các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, xét thấy:

- Về tố tụng:

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Nguyễn Thị Th và anh Phạm Văn Qu kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 19 tháng 02 năm 2020 tại Ủy ban nhân dân xã Hồng Phong, huyện An Dương, thành phố Hải Phòng, theo quy định tại Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, đây là hôn nhân hợp pháp. Chị Th hiện đang sống tại thành phố Hải Phòng, Việt Nam và anh Qu hiện đang sinh sống tại Nhật Bản, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm d khoản 1 Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của đương sự: Chị Nguyễn Thị Th đã nhận được các văn bản của Tòa án hợp lệ nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Anh Phạm Văn Qu đã có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt và ủy quyền cho chị Th nhận văn bản tố tụng của Tòa án, tài liệu của anh đã được xác nhận bởi Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản. Vì vậy, căn cứ khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị Th và anh Qu.

- Về nội dung:

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Th và anh Qu kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn vào ngày 19 tháng 02 năm 2020 tại Ủy ban nhân dân xã Hồng Ph, huyện An D, thành phố Hải Phòng. Anh chị chung sống cùng nhau tại Việt Nam được một thời gian thì anh Qu sang Nhật sinh sống và học tập. Thời gian vợ chồng xa cách, giữa anh chị phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, anh chị không thể cảm thông và chia sẻ với nhau. Đến thời gian gần đây, anh chị đã sống ly thân và không còn liên lạc với nhau. Bản thân anh chị và gia đình hai bên cũng đã hòa giải nhưng không có kết quả. Xét thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Th và anh Qu đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được, không có khả năng đoàn tụ, cần áp dụng Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Th.

[4] Về con chung: Chị Th và anh Qu không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản chung: Chị Th và anh Qu không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Th là nguyên đơn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[7] Về quyền kháng cáo: Chị Th và anh Qu được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; khoản 4 Điều 147; Điều 207; khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238; Điều 273; điểm d khoản 1 Điều 469; Điều 479 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị Th, 1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Th được ly hôn anh Phạm Văn Qu.

2. Về con chung: Chị Th và anh Qu không có con chung, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên hội đồng xét xử không xem xét.

3. Về tài sản chung: Chị Th và anh Qu không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị Nguyễn Thị Th phải chịu 300.000 ba trăm nghìn đồng án phí dân sự sơ thẩm. Nhưng được tr vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 ba trăm nghìn đồng theo Biên lai số 0000075 ngày 29 tháng 10 năm 2021 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị Th đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Chị Nguyễn Thị Th được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể t ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Anh Phạm Văn Qu được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể t ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 198/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:198/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/11/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;