Bản án 1839/2018/HNGĐ-ST về ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1839/2018/HNGĐ-ST NGÀY 10/12/2018 VỀ LY HÔN

Ngày 10 tháng 12 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 464/2017/TLST-HNGĐ ngày 16/10/2017 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 5421/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 15 tháng 11 năm 2018, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lưu Tố P, sinh năm 1972 (xin vắng mặt).

Địa chỉ: 500M H, Phường 7, Quận M, TP.Hồ Chí Minh.

Bị đơn: Ông Zhong De H, sinh năm 1968 (vắng mặt). Quốc tịch: Trung Quốc Địa chỉ: 402 Lầu 4, 302 đường D, khu BV, Thành phố Quảng Châu, Trung Quốc.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và Bản tự khai nguyên đơn bà Lưu Tố P trình bày:

Bà và ông Zhong De H sống chung từ năm 1993, và đăng ký kết hôn ngày 11/7/2000 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 2795 quyển số 19 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng chung sống đến năm 2015 thì ông Zhong De H trở về Trung Quốc sinh sống, bà ở lại Việt Nam, vợ chồng ít liên lạc với nhau, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc, tình cảm không còn nên bà yêu cầu được ly hôn với ông Zhong De H.

Về con chung: Bà và ông Zhong De H có 02 con chung tên Lưu Văn V (sinh năm 1994, chết năm 2018) và Lưu Khảo N sinh ngày 31 tháng 5 năm 2001. Hiện nay trẻ N đang sống cùng bà nên bà yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng trẻ N và không yêu cầu ông Zhong De H cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết. Bà xin được vắng mặt khi Tòa án giải quyết vụ án.

Ông Zhong De H được Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện các thủ tục tống đạt triệu tập đương sự hợp lệ theo quy định nhưng vẫn vắng mặt.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về thủ tục tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự trong quá trình thụ lý sơ thẩm và xét xử. Về phía các đương sự đã thực hiện đầy đủ các quyền của mình theo Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung: Bà Lưu Tố P khai không còn tình cảm với ông Zhong De H, cuộc sống chung không hạnh phúc nên yêu cầu ly hôn của bà Lưu Tố P có cơ sở chấp nhận. Về con chung: Có 02 con chung tên Lưu Văn V (sinh năm 1994, chết năm 2018) và Lưu Khảo N sinh ngày 31/5/2001. Hiện con tên Vĩ đã chết, còn trẻ N đang sống với bà Phân, bà yêu cầu được nuôi con chung và nguyện vọng của con cũng đồng ý sống với mẹ nên có cơ sở chấp nhận. Về tài sản chung và nợ chung bà Lưu Tố P khai không có, không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Về thủ tục tố tụng:

Bà Lưu Tố P có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ Khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bà Lưu Tố P.

Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện thủ tục ủy thác tư pháp đối với ông Zhong De H theo quy định pháp luật nhưng không có kết quả và cũng không nhận được lời khai, tài liệu, chứng cứ do ông Zhong De H cung cấp nên căn cứ Điều 227, Điều 477 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Zhong De H.

Về nội dung:

[1] Về quan hệ hôn nhân:

Bà Lưu Tố P và ông Zhong De H tự nguyện sống chung từ năm 1993, 2 đăng ký kết hôn ngày 11/7/2000 theo Giấy chứng nhận kết hôn số 2795 quyển số 19 do Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cấp nên là hôn nhân hợp pháp.

Về yêu cầu xin ly hôn của bà Lưu Tố P, Hội đồng xét xử xét thấy:

Ông Zhong De H định cư ở Trung Quốc. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống không hạnh phúc, không quan tâm nhau. Nay bà Lưu Tố P xác nhận không còn tình cảm với ông Zhong De H nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, về phía ông Zhong De H đã được Tòa án ủy thác tư pháp thông báo yêu cầu ly hôn của bà Lưu Tố P và ngày, giờ đưa vụ án ra xét xử nhưng không nhận được trả lời của ông Zhong De H. Điều này cho thấy ông Zhong De H không còn quan tâm đến cuộc sống hôn nhân với bà P, hôn nhân không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình, yêu cầu của bà Lưu Tố P xin ly hôn ông Zhong De H là có cơ sở, Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2] Về con chung: Bà Lưu Tố P và ông Zhong De H có 02 con chung tên Lưu Văn V (sinh năm 1994, chết năm 2018) và Lưu Khảo N sinh ngày 31/5/2001. Xét, trẻ N đang sống ổn định với mẹ và trẻ N có nguyện vọng được tiếp tục sống với mẹ. Nên yêu cầu của bà Lưu Tố P muốn tiếp tục được nuôi con chung tên Lưu Khảo N là có cơ sở chấp nhận. Ghi nhận bà Lưu Tố P không yêu cầu ông Zhong De H cấp dưỡng nuôi con.

[3] Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết, Hội đồng xét xử không xét.

[4] Về án phí:

Bà Lưu Tố P là nguyên đơn trong vụ án ly hôn nên phải nộp án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điều 37, Điều 147, Điều 228, Điều 273, Điều 477, Điều 479 Bộ luật tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84, Điều 122, Điều 123 Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án năm 2009 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án,

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân:

Cho ly hôn giữa bà Lưu Tố P và ông Zhong De H.

3 2. Về con chung: Giao con chung tên Lưu Khảo N sinh ngày 31/5/2001 cho bà Lưu Tố P trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Ghi nhận bà Lưu Tố P không yêu cầu ông Zhong De H cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Khi có căn cứ, cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại Khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và Gia đình có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Khi có lý do chính đáng, các bên có quyền yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu, Tòa án không giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm:

Bà Lưu Tố P chịu 300.000 đồng án phí sơ thẩm, được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo Biên lai số AA/2017/0047895 ngày 09 tháng 10 năm 2017 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh. Bà Lưu Tố P đã nộp đủ án phí sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Nguyên đơn có quyền kháng cáo đối với bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết. Bị đơn được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 12 tháng, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

61
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án 1839/2018/HNGĐ-ST về ly hôn

Số hiệu:1839/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 10/12/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;