Bản án về ly hôn số 18/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

BẢN ÁN 18/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/03/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 15 tháng 3 năm 2022, tại Trụ sở tòa án nhân dân thành phố V, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 130/2021/TLST – HNGĐ ngày 03 tháng 02 năm 2021, về “Ly hôn”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 17/2021/QĐXXST- HNGĐ ngày 30 tháng 12 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 01/2022/QĐST – HNGĐ ngày 21 tháng 01 năm 2022; Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 01/2022/TB-TA ngày 16 tháng 02 năm 2022 và Thông báo về việc thay đổi thời gian xét xử số 01/2022/TB-TA ngày 24 tháng 02 năm 2022, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Lê Thị A, sinh năm 1996.

Hộ khẩu thường trú: đường B, Phường C, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Địa chỉ hiện nay: Xã D, huyện E, tỉnh Thanh Hóa (có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt).

Bị đơn: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1995.

Hộ khẩu thường trú: đường B, Phường C, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

Địa chỉ hiện nay: đường G, Phường M, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 14 tháng 3 năm 2020, quá trình tố tụng, nguyên đơn bà Lê Thị A trình bày:

Bà và ông Nguyễn Văn B sau một thời gian tìm hiểu thì tự nguyện tiến hành đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường C, thành phố V, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu vào ngày 16-6-2016. Hôn nhân của bà và ông B thời gian đầu hạnh phúc, đến năm 2017 thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng không tìm được tiếng nói chung, bất đồng quan điểm sống, không hòa hợp về tính cách, vợ chồng bà thường xuyên cãi vã. Khi về chung sống, ông B thường xuyên uống bia rượu, khi xảy ra cãi vã, ông B còn đánh bà. Năm 2021, do không thể giải quyết, hàn gắn được mâu thuẫn vợ chồng, bà đã đưa con chung về nhà mẹ ruột ở Thanh Hóa để sinh sống, bà ly thân với ông B từ đó đến nay. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, cuộc sống chung không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Văn B.

Về con chung: Bà A và ông B có 01 con chung là cháu Nguyễn N, sinh ngày 24-9-2017. Cháu N đang sinh sống với bà tại Thanh Hóa, bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được quyền trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, bà không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà A không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại bản tự khai, bị đơn ông Nguyễn Văn B trình bày: Ông và bà Lê Thị A sau một thời gian tìm hiểu thì tự nguyện tiến hành đăng kí kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường C, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu vào ngày 16-6-2016. Hôn nhân của ông và bà A thời gian đầu hạnh phúc, sau này thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do hai bên gia đình không hiểu nhau, có hiềm khích với nhau nên mâu thuẫn giữa ông và bà A càng trở nên trầm trọng, không thể hàn gắn, gia đình ly tán. Nay nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được, ông đồng ý ly hôn với bà A.

Về con chung: Ông và bà A có 01 con chung là cháu Nguyễn N, sinh ngày 24-9-2017. Cháu N đang sinh sống ở nhà bố mẹ bà A tại Thanh Hóa. Ông đề nghị được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N, ông không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố V phát biểu quan điểm:

- Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án Thẩm phán, thư kí, HĐXX đã thực hiện đúng quy định của bộ luật tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Hôn nhân giữa bà A và ông B là hôn nhân hợp pháp. Bà A và ông B đều đồng ý ly hôn lý do trong quá trình chung sống, bà A và ông B không tìm được tiếng nói chung, hôn nhân không hạnh phúc, không còn tình cảm với nhau, mâu thuẫn trầm trọng kéo dài không thể hàn gắn. Xét mâu thuẫn là không thể giải quyết, mục đích hôn nhân không đạt. Vì vậy, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà A; Về con chung: 01 con chung là cháu Nguyễn N, sinh ngày 24-9-2017. Hiện nay, cháu N đang do ông bà A trực tiếp nuôi dưỡng nên đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết cho bà A được tiếp tục trực tiếp nuôi dưỡng con chung như đề nghị giải quyết của bà A; Bà A không yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng nuôi con nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét; Về tài sản chung, nợ chung: Bà A không yêu cầu giải quyết nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thâm tra tại phiên Tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Bà Lê Thị A có đơn khởi kiện về “Ly hôn” với ông Nguyễn Văn B, có nơi cư trú tại thành phố V nên xác định đây là vụ án hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố V theo quy định tại Điều 28, Điều 35, Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.

Tại phiên tòa hôm nay, bà A có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt, ông B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt. Căn cứ khoản 1 Điều 228, điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử văng mặt bà A và ông B.

[2]. Về quan hệ hôn nhân:

Xét bà Lê Thị A và ông Nguyễn Văn B chung sống và đăng ký kết hôn tự nguyện tại Ủy ban nhân dân Phường 12, thành phố V, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu vào ngày 16-6-2016. Như vậy, hôn nhân giữa bà A và ông B là hợp pháp.

Trong thời gian bà A và ông B chung sống, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Hai bên đưa ra nguyên nhân mâu thuẫn khác nhau: Bà A cho rằng nguyên nhân là do ông B thường xuyên uống rượu bia, đánh đập bà, ông B không tu chí làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình. Ông B lại cho rằng nguyên nhân để xảy ra mâu thuẫn là do gia đình hai bên không hợp nhau, gia đình bà A đã tác động, chia rẽ tình cảm của bà A và ông B dẫn đến mâu thuẫn giữa ông và bà A không thể hàn gắn được, gia đình ly tán, ông B đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà A.

Xét mâu thuẫn vợ chồng của bà A là có thật, bà A và ông B đều xác định mâu thuẫn của ông bà đã kéo dài, theo chiều hướng ngày càng trầm trọng, không thể hàn gắn. Bà A và ông B đã ly thân nên khả năng đoàn tụ là rất khó khăn, mục đích hôn nhân không đạt. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận đề xuất của đại diện Viện kiểm sát, xử bà A ly hôn với ông B.

[3]. Về con chung: Là cháu Nguyễn N, sinh ngày 24-9-2017, bà Hướng yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N. Ông B cũng có yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng cháu N.

Xét hiện nay cháu N đang do bà A trực tiếp nuôi dưỡng, cháu N sức khỏe ổn định, phát triển bình thường, để tránh xáo trộn trong sinh hoạt, tâm lý, sức khỏe...của cháu N, Hội đồng xét xử quyết định: Bà Hường trực tiếp nuôi dưỡng con chung là cháu Nguyên N.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà A, ông B không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Bà A, ông B không yêu cầu tòa giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]. Về án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: Bà A phải nộp theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 51, Điều 56, Điều 58 của Luật hôn nhân và gia đình; Điều 28, Điều 35, Điều 39, Điều 273 của Bộ Luật tố tụng Dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định về án phí, lệ phí.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị A.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị A và ông Nguyễn Văn B ly hôn.

2.Về con chung: Là cháu Nguyễn N, sinh ngày 24-9-2017 sẽ do bà A trực tiếp nuôi dưỡng.

Bà A không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con.

Ông B có quyền, nghĩa vụ thăm non con mà không ai được cản trở.

Trên cơ sở lợi ích của con, trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con, mức cấp dưỡng nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà A không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà A phải nộp 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân và gia đình, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0008322 ngày 02-02-2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố V. Bà A đã nộp xong án phí.

Bà A, ông B vắng mặt tại phiên nên được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết, để yêu cầu Toà án cấp trên xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

175
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 18/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:18/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 15/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;