Bản án về ly hôn số 181/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 181/2022/HNGĐ-ST NGÀY 26/07/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 7 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 331/2022/TLST - HNGĐ ngày 08/6/2022 về việc ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 190/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Vưu Tuyết O, sinh năm 1995; Địa chỉ: số 22/9, đường Lý Văn L, khóm 3, phường M, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (có mặt).

2. Bị đơn: Anh Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1988; Địa chỉ: ấp 8, xã An X, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Chị Vưu Tuyết O và anh Nguyễn Văn Đ chung sống với nhau năm 2013 có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường M, thành phố Cà Mau, tỉnh Cà Mau. Trong thời gian chung sống, lúc đầu vợ chồng sống hạnh phúc đến khoảng năm 2021, giữa vợ chồng xảy ra mâu thuẫn nguyên nhân do anh Đ ghen tuông vô cớ, thường xuyên uống rượu, không quan tâm lo lắng cho gia đình, vợ con nên vợ chồng thường xuyên gây gổ với nhau, hiện chị và anh Đ sống ly thân khoảng 03 tháng nay, cuộc sống nạnh ai nấy lo, không ai quan tâm đến ai nên chị O yêu cầu được ly hôn với anh Đ. Riêng anh Đ không đồng ý ly hôn, vì vẫn còn thương vợ, con.

Về con chung, chị O và anh Đ khai có 02 người con là Nguyễn Tường V, sinh ngày 19/11/2013 và Nguyễn Tường L, sinh ngày 15/02/2020 hiện đang chung sống với chị O. Khi ly hôn, chị O yêu cầu nuôi con và yêu cầu anh Đ cấp dưỡng nuôi con hàng tháng, mỗi người con là 1.000.000 đồng, hai người con là 2.000.000 đồng/tháng cho đến khi các con tròn 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án xét xử vụ án. Đối với anh Đ cho rằng nếu Tòa án giải quyết cho ly hôn, anh yêu cầu nuôi cả hai người con, không yêu cầu chị O cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung, chị O và anh Đ khai không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thủ tục tố tụng, anh Nguyễn Văn Đ đã được triệu tập tham gia phiên tòa xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng đều vắng mặt không rõ lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự, vẫn tiến hành đưa vụ án ra xét xử vắng mặt anh Đ.

[2] Về hôn nhân, chị O và anh Đ chung sống với nhau vào năm 2013, có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật nên hôn nhân của anh, chị được pháp luật công nhận và bảo vệ. Xét mâu thuẫn thực tế được anh, chị thừa nhận trong quá trình giải quyết vụ án là có thật và cũng chính từ mâu thuẫn trên, chị O cho rằng không còn tình cảm với anh Đ, riêng anh Đ không đồng ý ly hôn do còn tình cảm với chị O nhưng từ khi biết được chị O khởi kiện cho đến ngày Tòa án mở phiên Tòa xét xử, anh Đ vẫn không đưa ra được giải pháp nào để hàn gắn lại mối quan hệ hôn nhân vốn đã phát sinh nhiều mâu thuẫn. Hơn nữa, anh Đ đã được triệu tập tham gia phiên tòa xét xử hợp lệ đến lần thứ hai nhưng anh vẫn vắng mặt không rõ lý do điều đó cho thấy anh Đ không thật sự mong muốn hàn gắn lại tình cảm vợ chồng. Do đó, có căn cứ để nhận định tình trạng hôn nhân giữa chị O với anh Đ đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên yêu cầu của chị O về việc xin ly hôn với anh Đ được chấp nhận.

[2] Về con chung là Nguyễn Tường V, sinh ngày 19/11/2013 và Nguyễn Tường L, sinh ngày 15/02/2020 hiện đang chung sống với chị O. Khi ly hôn, anh Đ cùng chị O không thoả thuận được người trực tiếp nuôi con và nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Xét thấy việc nuôi dạy, cấp dưỡng nuôi con là quyền và nghĩa vụ của anh Đ, chị O. Việc giao con cho anh Đ hoặc chị O trực tiếp nuôi dạy cần căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con nhưng không phải giao con cho anh Đ hoặc chị O nuôi thì người không trực tiếp nuôi con bị tước đi các quyền chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cái. Tại phiên tòa, chị O khai cả hai đều có việc làm, thu nhập và nơi ở ổn định đủ điều kiện chăm sóc, nuôi dạy con nhưng việc anh, chị ly hôn đã phần nào ảnh hưởng đến cuộc sống bình thường của con nên cần phải hạn chế đến mức thấp nhất việc ảnh hưởng đời sống và bảo đảm được việc học hành, sự phát triển tốt về thể chất, tinh thần của con. Do đó, Hội đồng xét xử thấy rằng hiện các con của anh chị còn bé, lại là nữ giới dù anh Đ có cần mẫn, chịu khó chăm sóc con cũng không chu đáo bằng người mẹ và việc phát triển tâm sinh lý của các cháu cần phải có sự gần gũi, chăm sóc, chia sẽ của người mẹ. Hơn nữa, nguyện vọng của cháu V cũng muốn được chung sống với chị O nên giao các con cho chị O nuôi dưỡng là hợp lý.

Đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn, nhằm đảm bảo cho cuộc sống của con được đầy đủ, tốt hơn và thể hiện được trách nhiệm, tình thương của người làm cha, làm mẹ đối với con cái nên việc chị O yêu cầu anh Đ cấp dưỡng hàng tháng với mức cấp dưỡng cho mỗi người con là 1.000.000 đồng/tháng là phù hợp.

[3] Về tài sản chung và nợ chung, chị O và anh Đ khai không có, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[4] Về án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân và gia đình, chị O phải chịu. Anh Đ phải chịu án phí cấp dưỡng nuôi con.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào các Điều 144, 147 và Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

- Chấp nhận yêu cầu của chị Vưu Tuyết O về việc xin ly hôn anh Nguyễn Văn Đ.

- Về con chung là Nguyễn Tường V, sinh ngày 19/11/2013 và Nguyễn Tường L, sinh ngày 15/02/2020 hiện đang chung sống với chị Vưu Tuyết O. Khi ly hôn, tiếp tục giao các con cho chị O chăm sóc, nuôi dưỡng và anh Nguyễn Văn Đ có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi người con là 1.000.000 đồng, hai người con là 2.000.000 đồng/tháng (hai triệu đồng) cho đến khi các con tròn 18 tuổi, thời gian cấp dưỡng tính từ ngày Tòa án xét xử sơ thẩm (ngày 26/7/2022).

Anh Đ có quyền đến thăm nom, chăm sóc và nuôi dạy con chung.

Kể từ ngày chị O có đơn yêu cầu thi hành án, anh Đ không tự nguyện thi hành xong khoản tiền cấp dưỡng nuôi con thì còn phải trả thêm khoản lãi phát sinh theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Dân sự tương ứng với số tiền và thời gian chậm thi hành.

- Về tài sản chung và nợ chung, chị Vưu Tuyết O và anh Nguyễn Văn Đ khai không có, nên không đặt ra xem xét.

- Án phí dân sự sơ thẩm về hôn nhân gia đình, chị Vưu Tuyết O phải chịu số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng). Ngày 08/6/2022, chị O đã nộp tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai số 0001508 được đối trừ, chuyển thu sung quỹ Nhà nước.

- Án phí dân sự sơ thẩm về cấp dưỡng nuôi con, anh Nguyễn Văn Đ phải chịu số tiền 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng – chưa nộp).

Chị O được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Anh Đ vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

34
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 181/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:181/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Cà Mau
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;