Bản án về ly hôn số 16/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH P

BẢN ÁN 16/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân Th phố V, tỉnh P xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 449/2021/TLST-HNGĐ ngày 08 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 04/2022/QĐST- HNGĐ ngày 15 tháng 02 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 07/2022/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 3 năm 2022; số 16/2022/QĐST-HNGĐ ngày 18 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: A Nguyễn Đại M, sinh năm 1990

Bị đơn: Chị Đào Thị M Th, sinh năm 1985 Đều ĐKHKTT: Tổ 34A (nay là số nhà 21, ngõ 28 M Lang, phố Âu Cơ), phường T, Th phố V, tỉnh P. (A M, chị Th đều có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn A Nguyễn Đại M có đơn xin xét xử vắng mặt nhưng trong đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 09/12/2021 A trình bày: A và chị Đào Thị M Th là vợ chồng và có đăng ký kết hôn năm 2011 tại Ủy ban nhân dân phường T, Th phố V, tỉnh P. Trong suốt quá trình chung sống vợ chồng không có hạnh phúc và sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Vì vậy, A đề nghị Tòa án giải quyết cho A được ly hôn chị Th.

Về con chung: Vợ chồng A có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Quỳnh A, sinh ngày 05/8/2011, nguyện vọng của A muốn được trực tiếp nuôi con, không yêu cầu chị Th phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

A M có đơn từ chối công khai chứng cứ và từ chối hòa giải và có đơn xin vắng mặt tại phiên tòa xét xử vụ án.

- Bị đơn chị Đào Thị M Th: Quá trình giải quyết vụ án, chị Th vắng mặt tại nơi cư trú nên Tòa án đã tiến hành xác M, niêm yết các văn bản tố tụng cho chị Đào Thị M Th tại trụ sở Tòa án nhân dân Th phố V, tỉnh P; nhà văn hóa khu Âu Cơ, phường T và trụ sở Ủy ban nhân dân phường T, Th phố V, tỉnh P theo đúng quy định pháp luật.

Ngày 29/12/2021, Tòa án tiến hành xác M tại nơi cư trú của chị Th và được gia đình và đại diện chính quyền địa phương cho biết: Chị Th là con dâu bà Bùi Thị L và là vợ A Nguyễn Đại M, vợ chồng kết hôn ngày 04/3/2011 tại Ủy ban nhân dân phường T, Th phố V, tỉnh P và có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Quỳnh A, sinh năm 2011. Quá trình chung sống A chị hạnh phúc đến khoảng năm 2018 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, chị Th đi xuất khẩu lao động tại Nhật Bản và mới về cuối tháng 10/2021, sau khi về Việt Nam chị Th có về 03 ngày thăm con nhưng không ngủ ở nhà, sau đó chị Th đi làm ăn và ở đâu gia đình không biết, chị Th chỉ liên lạc qua masager cho con gái. Bản thân bà L muốn vợ chồng hai con đoàn tụ nhưng thực tế hai vợ chồng không ở với nhau từ khi chị Th đi nước ngoài và đến khi về cũng không ở cùng nhau. Nay chị Th ở đâu gia đình không biết, chị Th cũng không về chăm nom gia đình và quan tâm, chăm sóc con cái.

Cùng ngày 29/12/2021, Tòa án đã có biên bản làm việc đối với bà Bùi Thị L (là mẹ đẻ A M và là mẹ chồng chị Th) với nội dung như sau: Ngày 14/12/2021 tại số nhà 21, ngõ 28 M Lang, phố Âu Cơ, Th phố V, tỉnh P, Tòa án nhân dân Th phố V có đến giao cho chị Đào Thị M Th thông báo thụ lý vụ án và giấy báo đương sự nhưng chị Th không có ở nhà nên Tòa án đã giao cho bà Bùi Thị L là mẹ chồng chị Th nhận thay chị Th các giấy tờ trên, nhưng theo nội dung giấy báo thì chị Th đã không có mặt tại Tòa án để làm việc. Vì vậy, Tòa án đến nơi đăng ký hộ khẩu thường trú của chị Th để xác M chị Th hiện có ở nơi đăng ký thường trú không. Qua xác M được bà L cho biết: Chị Th hiện tại không có mặt ở nhà, vào thời gian gần đây khoảng cuối tháng 11/2021 chị Th có về thăm con 03 ngày nhưng không ngủ ở nhà, hiện tại chị Th ở và làm việc ở đâu bà không được biết, bà cũng không có số điện thoại của chị Th, chị Th thỉnh thoảng chỉ liên lạc với con gái qua masager.

Ngày 22/02/2022, Tòa án đã tiến hành xác M tại Công an phường T, Th phố V, tỉnh P đối với bị đơn chị Đào Thị M Th hiện có mặt tại nơi cư trú không? Qua xác M và làm việc được Công an phường T cung cấp thông tin như sau: Chị Đào Thị M Th, sinh năm 1985 có đăng ký hộ khẩu thường trú tại tổ 34A, nay là số nhà 21, ngõ 28 M Lang, phố Âu Cơ, phường T, Th phố V, tỉnh P. Chị Th chưa chuyển khẩu đi nơi khác, tuy nhiên hiện tại chị Th không sinh sống tại nơi cư trú, chị Th đi đâu, làm gì gia đình không biết và không thông báo cho cơ quan công an để quản lý, tết âm lịch vừa rồi (năm 2022) chị Th có về thăm con xong lại đi ngay.

Ngày 22/3/2022, chị Đào Thị M Th đã đến Tòa án làm việc và có lời khai như sau: Chị đã nhận được các văn bản tố tụng của Tòa án và được tiếp cận các tài liệu có trong hồ sơ vụ án ly hôn giữa A Nguyễn Đại M và chị, quan điểm của chị như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và A M đăng ký kết hôn ngày 14/3/2011, nay A M xin ly hôn chị nhất trí vì tình cảm vợ chồng không còn.

- Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là Nguyễn Ngọc Quỳnh A, sinh ngày 05/8/2011. Nguyện vọng của chị muốn nuôi con nhưng nếu A M muốn nuôi thì để A M trực tiếp nuôi con và chị cũng nhất trí việc A M không đề nghị chị cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Không có không đề nghị Tòa án giải quyết.

Chị Th còn trình bày chị đã được tiếp cận các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nên đề nghị Tòa án xét xử vụ án và xin được vắng mặt tại phiên tòa.

Tại bản tự khai ngày 09/12/2021 cháu Nguyễn Ngọc Quỳnh A trình bày: Bố là người hiểu con hơn, bố luôn lắng nghe con, tôn trọng con. Bố chăm sóc và đối xử tốt với con, ở bên bố con thấy vui vẻ, hạnh phúc. Vì vậy, con muốn được ở với bố.

Quá trình giải quyết vụ án, A M có đơn từ chối công khai chứng cứ và từ chối hòa giải nên vụ án được đưa ra xét xử theo quy định pháp luật.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Th phố V, tỉnh P tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về nội dung giải quyết vụ án: Căn cứ các Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 điều 39; Điều 238; Điều 271; Điều 273; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội, xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa A Nguyễn Đại M và chị Đào Thị M Th.

- Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Ngọc Quỳnh A, sinh ngày 05/8/2011 cho A Nguyễn Đại M được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi Th niên. Chị Đào Thị M Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

A M cùng các Th viên trong gia đình không được cản trở chị Th trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Về án phí ly hôn sơ thẩm: A Nguyễn Đại M phải chịu 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được xem xét tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Quan hệ trA chấp và thẩm quyền giải quyết được xác định: Đây là trA chấp hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn” giữa nguyên đơn A Nguyễn Đại M và bị đơn chị Đào Thị M Th. Chị Th có hộ khẩu thường trú tại: Số nhà 21, ngõ 28 M Lang, phố Âu Cơ, phường T, Th phố V, tỉnh P. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Th phố V, tỉnh P là đúng quy định pháp luật.

[2]. Về nội dung:

- Quan hệ hôn nhân giữa A Nguyễn Đại M và chị Đào Thị M Th là hôn nhân hợp pháp. Trong quá trình chung sống, theo như A M trình bày thì vợ chồng không có hạnh phúc và sống ly thân từ năm 2019 đến nay, vợ chồng không còn quan hệ tình cảm. Quá trình giải quyết vụ án, do chị Th vắng mặt tại nơi cư trú nên Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng cho chị Th theo đúng quy định của pháp luật. Đến ngày 22/3/2022, chị Đào Thị M Th đã đến Tòa án làm việc và chị cũng nhất trí xin ly hôn A M vì tình cảm vợ chồng không còn. Tòa án đã xác M tại gia đình và chính quyền địa phương được biết A M và chị Th là vợ chồng và thực tế đã sống ly thân từ năm 2019 đến nay, điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng giữa A M và chị Th rất trầm trọng, vợ chồng không có tiếng nói chung, không còn quan tâm, chăm sóc lẫn nhau, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần công nhận sự thuận tình ly hôn giữa A M và chị Th.

- Về con chung: Xác định vợ chồng A M, chị Th có 01 con chung là là Nguyễn Ngọc Quỳnh A, sinh ngày 05/8/2011. Ly hôn, A M đề nghị được trực tiếp nuôi con chung và hiện nay cháu Quỳnh A đang ở với A, nguyện vọng của cháu Quỳnh A cũng muốn ở với bố, về phía chị Th cũng nhất trí giao con chung cho A M chăm sóc, nuôi dưỡng nên cần giao con chung cho A Nguyễn Đại M được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi Th niên. Về cấp dưỡng nuôi con, A M không yêu cầu chị Th phải cấp dưỡng nuôi con chung và chị Th cũng nhất trí với yêu cầu này của A M nên không buộc chị Th phải cấp dưỡng nuôi con chung là phù hợp.

A M và các Th viên trong gia đình không được cản trở chị Th trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

- Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: A M, chị Th đều xác định không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Tòa án không đặt ra xem xét, giải quyết là phù hợp.

[3] Về án phí ly hôn sơ thẩm: A Nguyễn Đại M phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

[4]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự đều có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

[5]. Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Th phố V, tỉnh P là có căn cứ và phù hợp với quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 51, khoản 1 Điều 56, Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân gia đình; Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 điều 39; Điều 238; Điều 271; Điều 273; khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận thuận tình ly hôn giữa A Nguyễn Đại M và chị Đào Thị M Th.

2. Về con chung: Giao con chung là Nguyễn Ngọc Quỳnh A, sinh ngày 05/8/2011 cho A Nguyễn Đại M được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi Th niên. Chị Đào Thị M Th không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

A M cùng các Th viên trong gia đình không được cản trở chị Th trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: A Nguyễn Đại M phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận A M (do chị Tạ Thị Ngà nộp thay) đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2020/0009902 ngày 08/12/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự Th phố V, tỉnh P.

5. A M, chị Th vắng mặt có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh P trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp quyết định này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7,7a và 9 Luật thi hành án dân sự;

thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 16/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:16/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đồng Xoài - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;