Bản án về ly hôn số 15/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ Đ - TỈNH L

BẢN ÁN 15/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 18 tháng 4 năm 2022 tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Đ - tỉnh L;

xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 629/2021/TLST-HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2021 về tranh chấp: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 20/2022/QĐXXST - HNGĐ ngày 25 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Kim P, sinh năm:1982 (có mặt). Địa chỉ: Số 69B, Thái Phiên, Phường K, thành phố Đ, tỉnh L.

Bị đơn: Anh Phạm Minh P, sinh năm: 1973 (có mặt).

Địa chỉ: Số 34A/8, đường N, Phường K, thành phố Đ, tỉnh L.

NỘI DUNG VỤ ÁN

*Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và lời trình bày của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Kim P thì: Chị và anh Phạm Minh P kết hôn năm 2017, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường K, thành phố Đ, tỉnh L; hôn nhân tự nguyện, có làm lễ ra mắt gia đình nội ngoại 2 bên. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung tại số 35A/8, đường Nguyễn Thái Bình, Phường K, thành phố Đ là nhà riêng của anh P. Cuộc sống chung hòa thuận hạnh P được khoảng thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do trước đó anh P đã có 01 đời vợ và có 02 con riêng, vợ chồng chung sống với chị anh P không đưa tiền cho chị lo kinh tế nuôi con, anh P không có trách nhiệm với con của chị, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn. Vợ chồng mâu thuẫn nên chị đã chuyển về sống cùng gia đình chị và vợ chồng sống ly thân một năm nay. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh P.

Về con chung: Vợ chồng chị có 01 con chung là Phạm Nguyễn Đức T, sinh ngày 22/12/2017. Từ trước đến nay chị là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, anh P không có trách nhiệm với con. Ly hôn chị có nguyện vọng được quyền trực tiếp nuôi con, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con. Vì chị kinh doanh cà phê, bán hàng thêm nên thu nhập đủ điều kiện nuôi con.

Chị P không đồng ý giao con cho anh P nuôi, vì từ khi chị sinh con đến nay anh P không có trách nhiệm cũng không chăm sóc con, kinh tế gia đình anh P quản lý hết. Việc anh P cho rằng chị cản trở việc anh gặp con là không đúng.

Về tài sản chung: Vợ chồng chị không có tài sản chung gì, nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

*Theo bản tự khai và trình bày của bị đơn anh Phạm Minh P thì: Anh và chị P kết hôn năm 2017, đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường K, thành phố Đ, tỉnh L; hôn nhân tự nguyện, có làm lễ ra mắt gia đình nội ngoại 2 bên. Sau khi kết hôn vợ chồng sống chung tại số 35A/8, đường Nguyễn Thái Bình, Phường K, thành phố Đ là nhà riêng của anh. Cuộc sống chung vợ chồng hạnh P được thời gian ngắn thì xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do mỗi lần vợ chồng cãi nhau là chị P đưa con về nhà mẹ đẻ ở, nhiều lần anh phải đến đón vợ con về. Vợ chồng chính thức sống ly thân từ giữa năm 2021 đến nay. Nay anh xác định tình cảm không còn nên đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị P.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung là Phạm Nguyễn Đức T, sinh ngày 22/12/2017. Thời gian vợ chồng ly thân chị P đưa con về ở cùng gia đình chị P, gia đình chị P cản trở anh gặp con. Nên ly hôn anh có nguyện vọng được quyền trực tiếp nuôi con, không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con.

Việc chị P trình bày anh không có trách nhiệm với vợ con là không đúng, do chị P tự dẫn con về sống cùng mẹ và cản trở việc anh gặp con. Anh có nguyện vọng nuôi con vì anh có nhà riêng ở ổn định, còn chị P đang sống chung cùng mẹ, không có nhà ở riêng. Anh cũng có vườn để làm kinh tế, đủ điều kiện lo cho con.

Về tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung gì, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Không có, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án tiến hành hòa giải nhưng không thành.

Tại phiên tòa:

Chị P vẫn giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh P và giữ nguyên yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung là Phạm Nguyễn Đức T, sinh ngày 22/12/2017, không yêu cầu anh P cấp dưỡng nuôi con.

Anh P đồng ý ly hôn theo yêu cầu của chị P và giữ nguyên yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi con chung là Phạm Nguyễn Đức T, sinh ngày 22/12/2017, không yêu cầu chị P cấp dưỡng nuôi con.

Do vụ án không thu thập chứng cứ theo quy định nên đại diện Viện kiểm sát không tham gia tố tụng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền: Xuất phát từ việc vợ chồng mâu thuẫn với nhau trong cuộc sống nên chị Nguyễn Thị Kim P xin ly hôn anh Phạm Minh P, vì vậy có đủ cơ sở xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; căn cứ điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân thành phố Đ, tỉnh L có thẩm quyền giải quyết tranh chấp nói trên.

[2] Về nội dung qua xem xét thì thấy rằng:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị P và anh P kết hôn với nhau vào năm 2017, trên cơ sở tìm hiểu, tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường 12, thành phố Đ, tỉnh L. Cuộc sống chung của vợ chồng hòa thuận hạnh P được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân do vợ chồng bất đồng về kinh tế, bất đồng về quan điểm sống; vợ chồng đã sống ly thân 1 năm nay, quá trình chị P xin ly hôn thì anh P cũng đồng ý ly hôn. Vì vậy, nếu cứ kéo dài tình trạng hôn nhân như hiện nay cũng không mang lại hạnh P cho các đương sự do mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng kéo dài, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ Điều 51, Điều 55 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 ghi nhận sự thuận tình ly hôn giữa chị P và anh P.

[2.2] Về con chung: Chị P và anh P có 01 con chung là Phạm Nguyễn Đức T, sinh ngày 22/12/2017. Khi ly hôn chị P và anh P đều có nguyện vọng được nuôi con. Xét thấy về điều kiện để nuôi con cả chị P và anh P đều có điều kiện để nuôi con, tuy nhiên từ trước đến nay cháu T sống với chị P và hiện cháu còn nhỏ cần sự quan T chăm sóc của người mẹ. Vì vậy, để đảm bảo sự ổn định về mặt T sinh lý của trẻ nhỏ cần tiếp tục giao con chung là Phạm Nguyễn Đức T, sinh ngày 22/12/2017 cho chị P có trách nhiệm trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng, giáo dục là hoàn toàn phù hợp.

Về việc cấp dưỡng nuôi con, do chị P không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Về tài sản chung và nợ chung: Chị P và anh P đều xác định vợ chồng không có tài sản chung và không có nợ chung. Vì vậy, Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.

[3] Về án phí: Chị P phải chịu 300.000đ án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 51; Điều 53; Điều 56; Điều 57; Điều 58; Điều 81; Điều 82; Điều 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 147 ; Điều 266 của Bộ luật tố tụng Dân sự năm 2015;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử : Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn” của chị Nguyễn Thị Kim P.

1/Về quan hệ hôn nhân: Ghi nhận sự tự nguyện ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Kim P và anh Phạm Minh P.

2/Về con chung: Giao con chung là Phạm Nguyễn Đức T, sinh ngày 22/12/2017 cho chị Nguyễn Thị Kim P có trách nhiệm trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi con thành niên (đủ 18 tuổi). Anh P không phải cấp dưỡng nuôi con.

Quyền đi lại thăm nom con, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; quyền thay đổi người trực tiếp nuôi con; thay đổi mức cấp dưỡng được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3/Về án phí: Chị Nguyễn Thị Kim P phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án đã nộp là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Toà án số 0001368 ngày 20 tháng 12 năm 2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố Đ, chị P đã nộp đủ án phí.

Đương sự có mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (18/4/2022) để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh L xét xử P thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2, Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo các quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

151
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 15/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:15/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Đà Lạt - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;