Bản án về ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DI LINH, TỈNH LÂM ĐỒNG

BẢN ÁN 14/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 14 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 220/2021/TLST-HNGĐ ngày 01 tháng 11 năm 2021 về việc: “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01/3/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 19/2022/QĐST-HNGĐ ngày 29/3/2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Đỗ Thị Lệ H, sinh năm: 1989; nơi cư trú: xóm B, thôn G, xã L, huyện D, tỉnh Lâm Đồng, có mặt.

Bị đơn: Anh Đinh Nhật V, sinh năm: 1981; nơi cư trú: xóm E, thôn G, xã L, huyện D, tỉnh Lâm Đồng, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, các tài liệu có trong hồ sơ và lời trình bày của chị Đỗ Thị Lệ H thì: Chị H và anh V sống chung với nhau từ năm 2006, đến năm 2007 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã L, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Hôn nhân do hai bên tự nguyện, có tổ chức lễ cưới. Sau khi kết hôn vợ chồng sống tại thôn G, xã L, huyện D, tỉnh Lâm Đồng. Cuộc sống vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc được 15 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh V không lo làm ăn mà suốt ngày đi chơi, ăn nhậu về nhà chửi bới, đánh đập vợ con, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi vã, đánh nhau. Chị đã cố gắng nhẫn nhịn để mong anh V thay đổi nhưng đến ngày 17/7/2021 anh V đi nhậu say về nhà đập phá nhà cửa, đốt nhà gây ảnh hưởng đến tinh thần của chị và các con nên chị đã về gia đình ngoại sinh sống, vợ chồng sống ly thân được 04 tháng. Chị và gia đình hai bên khuyên bảo anh V nhưng anh V không thay đổi. Nay chị xác định không còn tình cảm vợ chồng với anh V, vợ chồng không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Đinh Nhật V.

- Về con chung: Chị H xác định chị và anh V có 02 con chung là cháu Đinh Thụy Diệu Đ, sinh ngày 15/10/2006 và cháu Đinh Nhật Nguyên H, sinh ngày 30/9/2008, hiện các con đang ở với chị H. Ly hôn chị H yêu cầu được nuôi hai con chung, yêu cầu anh V cấp dưỡng nuôi hai con 3.000.000 đồng/tháng cho đến khi các con đủ tuổi thành niên.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án đã tiến hành tống đạt thông báo thụ lý vụ án; giấy triệu tập đương sự; thông báo về phiên hòa giải; thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh V nhưng anh V không đến Tòa làm việc.

Tại phiên tòa, chị H vẫn giữa nguyên yêu cầu khởi kiện, yêu cầu được ly hôn với anh V; yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung cho đến khi các con đến tuổi thành niên, việc cấp dưỡng nuôi con chị tự thỏa thuận với anh V không yêu cầu Tòa án giải quyết; bị đơn anh V vắng mặt lần thứ hai không có lý do.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện D, tỉnh Lâm Đồng phát biểu quan điểm tại phiên tòa:

Về tố tụng: Trong quá trình thụ lý vụ án cũng như giải quyết vụ án, thì Chủ tọa phiên tòa và Hội đồng xét xử đã thực hiện đầy đủ trình tự thủ tục tố tụng. Nguyên đơn thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bị đơn vắng mặt lần thứ hai không có lý do, Hội đồng xét xử xét xử vắng bị đơn là bảo đảm theo quy định tại khoản 2 điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Về quan hệ hôn nhân: Xét mâu thuẫn giữa chị H và anh V có xảy ra và thực tế đã trầm trọng không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H, cho chị H và anh V ly hôn.

Về con chung: Giữa chị H và anh V có hai con chung là cháu Đinh Thụy Diệu Đ, sinh ngày 15/10/2006 và cháu Đinh Nhật Nguyên H, sinh ngày 30/9/2008, hiện các cháu đang ở với mẹ và có nguyện vọng được ở với mẹ nên đề nghị Hội đồng xét xử giao hai con chung cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi các con đủ tuổi thành niên. Việc cấp dưỡng nuôi con chị H tự thỏa thuận với anh V, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập.

Về tài sản chung và nợ chung: Giữa chị H và anh V không có tài sản chung cũng như không có nợ chung nên không đề nghị xem xét.

Về án phí: Buộc chị H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ các tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, ý kiến của Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Xuất phát từ yêu cầu khởi kiện của chị Đỗ Thị Lệ H yêu cầu được ly hôn với anh Đinh Nhật V nên xác định quan hệ tranh chấp là “Ly hôn” theo quy định tại khoản 1 điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Di Linh, tỉnh Lâm Đồng.

[2] Về tố tụng: Anh Vương vắng mặt lần thứ hai không có lý do, không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh Vương theo quy định tại khoản 2 điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Chị Đỗ Thị Lệ H và anh Đinh Nhật V kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền và được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Vợ chồng chung sống hòa thuận, hạnh phúc được 15 năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh V không lo làm ăn mà suốt ngày đi chơi, ăn nhậu về nhà chửi bới, đánh đập vợ con, đập phá nhà cửa, đốt nhà. Vợ chồng sống ly thân được gần 01 năm nhưng không có cách thức, biện pháp nào để hàn gắn tình cảm vợ chồng. Chị H xác định vợ chồng không còn tình cảm, không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin được ly hôn với anh V để trả tự do cho đôi bên. Tòa án triệu tập hợp lệ anh V nhiều lần nhưng anh V không đến Tòa làm việc, không có biện pháp nào hàn gắn tình cảm vợ chồng là thể hiện thái độ bỏ mặc. Xét thấy mâu thuẫn giữa chị H và anh V đã trầm trọng, không còn khả năng hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên căn cứ vào điều 51, điều 56 Luật hôn nhân gia đình, cho chị Đỗ Thị Lệ H và anh Đinh Nhật V được ly hôn.

[4] Về con chung: Giữa chị H và anh Vcó hai con chung là cháu Đinh Thụy Diệu Đ, sinh ngày 15/10/2006 và cháu Đinh Nhật Nguyên H, sinh ngày 30/9/2008, hiện các cháu đang ở với mẹ. Tòa án lấy lời khai các cháu đều có nguyện vọng được ở với mẹ. Xét thấy các cháu hiện đang ở với chị H, có cuộc sống ổn định, phát triển bình thường, chị H đang sống với cha mẹ, có nhà cửa, có công ăn việc làm ổn định nên căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của các cháu, cần giao các cháu Đ, H cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi các cháu đủ tuổi thành niên. Về cấp dưỡng nuôi con chị H tự thỏa thuận với anh V, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề cập.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Chị H xác định không có tài sản chung, không có nợ chung nên không đề cập.

[6] Về án phí: Chị Đỗ Thị Lệ H phải chịu án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ khoản 1 điều 28, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39, điều 147 của Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ các điều 51, 56, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Đỗ Thị Lệ H và anh Đinh Nhật V ly hôn.

2. Về con chung: Giao hai con chung là cháu Đinh Thụy Diệu Đ, sinh ngày 15/10/2006 và cháu Đinh Nhật Nguyên H, sinh ngày 30/9/2008 cho chị Đỗ Thị Lệ H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cho đến khi các con đủ tuổi thành niên.

Việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con, nghĩa vụ, quyền của cha mẹ trực tiếp, không trực tiếp nuôi con, thay đổi người trực tiếp nuôi con và thay đổi cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn được thực hiện theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình.

3. Về án phí: Chị Đỗ Thị Lệ H phải chịu 300.000 đồng án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm (được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị H đã nộp theo biên lai thu số 0006263 ngày 01 tháng 11 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện D, tỉnh Lâm Đồng).

4. Về quyền kháng cáo: Trong hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, chị H được quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng để xin xét xử phúc thẩm, riêng anh V vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo là 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

4. Trường hợp quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 14/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:14/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Di Linh - Lâm Đồng
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 14/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;