Bản án về ly hôn số 132/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 132/2021/HNGĐ-ST NGÀY 26/08/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 26 tháng 8 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng xét xử công khai vụ án thụ lý số 166/2020/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 10 năm 2020 về việc “ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 136/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2021 và Thông báo về việc mở lại phiên tòa số 1658/TB-TA ngày 26 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị A, sinh năm 1983; nơi cư trú: Thôn Đ, xã ĐH, huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng; vắng mặt;

- Bị đơn: Anh Park Chul B, sinh năm 1961; nơi cư trú: 216 N, Deokjin-gu, Jeonju-si, Jeollabuk-do, Korea (Hàn Quốc); vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện và các bản tự khai, nguyên đơn là chị Trần Thị A trình bày:

Chị Trần Thị A kêt hôn với anh Park Chul B và có đăng ký kết hôn tại Hàn Quốc, có ghi chú kết hôn tại Sở Tư pháp thành phố Hải Phòng vào ngày 05 tháng 6 năm 2008. Sau khi kết hôn, chị A và anh Park Chul B vê Han Quôc sinh sông. Sau 03 tháng sống chung, chị A bị anh Chul Man chửi mắng, đánh đập nên chị A đã về Việt Nam từ tháng 9 năm 2008. Từ đó đến nay anh chi không còn liên lạc với nhau nữa . Đến nay xác định không còn tình cảm, xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được, chị A đề nghị Toà án giải quyết cho chị ly hôn với anh Park Chul B.

Về con chung: Chị A và anh Park Chul B không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị A và anh Park Chul B không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với kết quả ủy thác cho bị đơn anh Park Chul B:

Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng đã tiến hành ủy thác tư pháp thông qua Bộ Tư pháp cho cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài để tống đạt thông báo thụ lý vụ án và nội dung câu hỏi yêu cầu anh Park Chul B trả lời để cung cấp thông tin cho Tòa án có căn cứ giải quyết vụ án. Ngày 14/7/2020, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng nhận được Công văn số 1037/CH-BTP của Bộ Tư pháp về việc đã chuyển hồ sơ ủy thác tư pháp cho Cục Quản lý Toà án Quốc gia, Đại Hàn Dân Quốc để thực hiện việc ủy thác và gửi lại kết quả cho Bộ Tư pháp. Ngày 23 tháng 7 năm 2021, Tòa án nhận được văn bản trả lời số 2122/BTP- PLQT ngày 16 tháng 7 năm 2021 và những tài liệu kết quả tống đạt kèm của Bộ Tư pháp với nội dung: Cơ quan có thẩm quyền của Đại Hàn Dân Quốc không thực hiện được uỷ thác tư pháp với lý do địa chỉ của người nhận không xác định. Sau đó, Tòa án đã có văn bản đề nghị đăng tải thông báo trên Cổng thông tin điện tử của Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc và Cổng thông tin điện tử của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng.

Quan điểm của đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng:

- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án: Thẩm phán, Hội đồng xét xử cấp sơ thẩm đã chấp hành đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự; nguyên đơn đã thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ đúng theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về quan điểm giải quyết vụ án: Chị Trần Thị A và anh Park Chul B kêt hôn va co đăng ky kêt hôn tai Han Quôc , có ghi chú kết hôn tại Sở Tư pháp thành phố Hải Phòng vào ngày 05 tháng 6 năm 2008 là hôn nhân hợp pháp. Tuy nhiên xét thấy mâu thuẫn vợ chồng anh chị đã không thể hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, xử: Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị A được ly hôn anh Park Chul B. Về con chung: Chị Trần Thị A và anh Park Chul B không có, không yêu cầu nên không phải giải quyết. Về tài sản chung: Chị Trần Thị A và anh Park Chul B không có, không yêu cầu nên không phải giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về thẩm quyền: Đây là vụ án tranh chấp về việc ly hôn. Bị đơn anh Park Chul B hiện đang sinh sống tại Hàn Quốc, nguyên đơn chị Trần Thị A sinh sống tại Hải Phòng, theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 3 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 37 của Bộ luật Tố tụng dân sự vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Tại phiên tòa, nguyên đơn là chị Trần Thị A vắng mặt nhưng có đơn đề nghị xét xử vắng mặt; bị đơn anh Park Chul B vắng mặt không có lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ. Ngay sau khi nhận được văn bản về việc Cơ quan có thẩm quyền của Đại Hàn Dân Quốc không thực hiện được uỷ thác tư pháp cho anh Park Chul B với lý do địa chỉ của người nhận không xác định, ngày 26 tháng 7 năm 2021, Tòa án đã có văn bản đề nghị đăng tải thông báo trên cổng thông tin điện tử của Đại sứ quán Việt Nam tại Hàn Quốc và của Ban biên tập Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng cho anh Park Chul B biết về thời gian mở phiên họp hòa giải, thời gian mở phiên tòa xét xử. Đã hết thời hạn một tháng kể từ ngày đăng thông báo nhưng anh Park Chul B vẫn không có mặt tại phiên tòa. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 và điểm c khoản 6 Điều 477 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Toà án nhân dân thành phố Hải Phòng tiến hành xét xử vắng mặt anh Park Chul B.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Tài liệu trong hồ sơ vụ án thể hiện: Chị Trần Thị A kêt hôn v ới anh Park Chul B và có đăng ký kết hôn tại Hàn Quốc , có ghi chú kết hôn tại Sơ Tư phap thanh phô Hai Phòng vào ngày 05 tháng 6 năm 2008. Căn cứ Điều 8, Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình, đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, chị A và anh Park Chul B vê Han Quôc sinh sông . Sau 03 tháng sống chung, chị A bị anh Chul Man chửi mắng, đánh đập nên chị A đã về Việt Nam từ tháng 9 năm 2008. Từ đó đến nay anh chi không con liên lạc với nhau nữa . Đến nay, chị A xác định không còn tình cảm với anh Park Chul B nên yêu cầu Toà án giải quyết cho chị ly hôn với anh Park Chul B. Xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được, mâu thuẫn không thể hàn gắn, đời sống hôn nhân không thể kéo dài, vợ chồng mỗi người một nơi. Căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Trần Thị A.

[4] Về con chung: Chị A khai chị và anh Park Chul B không có con chung, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[5] Về tài sản chung: Chị A khai chị và anh Park Chul B không có tài sản chung, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí dân sự sơ thẩm và lệ phí uỷ thác tư pháp: Chị Trần Thị A là nguyên đơn nên phai chiu an phi ly hôn sơ thâm và lệ phí uỷ thác tư pháp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 37 khoản 4 Điều 147, khoản 3 Điều 153, điểm d khoản 1 Điều 469, điểm c khoản 6 Điều 477, Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ vào Điều 51, khoản 1 Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ vào điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Trần Thị A.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Thị A được ly hôn anh Park Chul B.

2. Về con chung: Chị A khai chị và anh Park Chul B không có con chung, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

3. Về tài sản chung: Chị A khai chị và anh Park Chul B không có tài sản chung, không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí dân sự sơ thẩm và lệ phí uỷ thác tư pháp:

Chị Trần Thị A phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí ly hôn sơ thẩm đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008738 ngày 05 tháng 10 năm 2020 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị Trần Thị A phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) chi phí ủy thác tư pháp nhưng được trừ vào số tiền 200.000 đồng(Hai trăm nghìn đồng) tạm ứng chi phí uỷ thác tư pháp đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0008739 ngày 05 tháng 10 năm 2020 tại Cục Thi hành án dân sự thành phố Hải Phòng. Chị Trần Thị A đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm và chi phí ủy thác tư pháp.

5.Về quyền kháng cáo:

Chị Trần Thị A (vắng mặt) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết theo quy định của pháp luật.

Anh Park Chul B (vắng mặt) được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 132/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:132/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;