Bản án về ly hôn số 13/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN B, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 13/2022/HNGĐ-ST NGÀY 06/09/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 06 tháng 9 năm 2022, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện B, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 41/2022/TLST- HNGĐ, ngày 01 tháng 8 năm 2022 về Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 13/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N); Nơi cư trú: Tk1, thị trấn B, huyện B, tỉnh Sơn La; vắng mặt có lý do, xin giải quyết, xét xử vắng mặt.

- Bị đơn: Anh Văn Trọng Đ; Nơi cư trú: Tk1, thị trấn B, huyện B, tỉnh Sơn La; vắng mặt có lý do, xin giải quyết, xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 27/7/2022, bản tự khai nguyên đơn là chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N) trình bày: Chị và anh Văn Trọng Đ có đăng ký kết hôn ngày 28/12/2015 tại Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện B, tỉnh Sơn La trên cơ sở tự nguyện. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc đến năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân của mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung; hai vợ chồng bắt đầu sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Khi phát sinh mâu thuẫn đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không thành. Đến nay, chị N nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên mong muốn Tòa án giải quyết cho chị N được ly hôn với anh Văn Trọng Đ.

Về con chung: Trong thời gian chung sống chị N và anh Đ có hai con chung cháu thứ nhất tên là Văn Thị Minh C, sinh ngày 29/3/2016, cháu thứ hai tên là Văn Đại G, sinh ngày 03/9/2017, hiện hai cháu đang ở với bố tại tk1, thị trấn B. Do bận đi làm ăn xa chị N có nguyện vọng giao cả hai cháu cho anh Văn Trọng Đ trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cháu Văn Đại G mỗi tháng là 1.500.000 đồng cho đến khi cháu trưởng thành, đủ 18 tuổi.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án.

Về vay nợ chung: Vợ chồng không vay nợ của ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án.

Do điều kiện hoàn cảnh đi làm ăn xa, không xin công ty nghỉ được chị N không thể về để giải quyết việc Ly hôn, do đó chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N) có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt.

Tại bản tự khai bị đơn là anh Văn Trọng Đ trình bày: Anh và chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N) tìm hiểu nhau và đi đến kết hôn có đăng ký kết hôn ngày 28/12/2015 tại Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện B, tỉnh Sơn La trên cơ sở tự nguyện. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc đến năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân của mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung; hai vợ chồng bắt đầu sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Khi phát sinh mâu thuẫn đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không thành. Đến nay, nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên mong muốn Tòa án giải quyết cho anh và chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N) được ly hôn.

Về con chung: Trong thời gian chung sống anh Đ và chị N hai con chung cháu thứ nhất tên là Văn Thị Minh C, sinh ngày 29/3/2016, cháu thứ hai tên là Văn Đại G, sinh ngày 03/9/2017, hiện hai cháu đang ở với anh Đ tại tk1, thị trấn B. Anh Đ có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai cháu. Nhất trí chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N) cấp dưỡng nuôi con chung cháu Văn Đại G mỗi tháng là 1.500.000 đồng.

Về tài sản chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án.

Về vay nợ chung: Vợ chồng không vay nợ của ai, không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án.

Do điều kiện, hoàn cảnh bận công việc, không sắp xếp được thời gian để lên Tòa án giải quyết việc Ly hôn, do đó anh Văn Trọng Đ có đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt.

Do các bên đương sự có đơn yêu cầu không mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và không tiến hành hòa giải. Vì vậy Tòa án không tiến hành mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

Đại diện Viện kiểm sát ý kiến: Thẩm phán đã thực hiện đúng, đầy đủ quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Hội đồng xét xử đã tuân theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự về xét xử sơ thẩm vụ án. Nguyên đơn, bị đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của pháp luật, nguyên đơn, bị đơn đã được tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng của Tòa án nhưng vắng mặt có lý do điều kiện, hoàn cảnh đi làm ăn xa, việc đi lại khó khăn, bận công việc, không sắp xếp được thời gian để lên tòa án giải quyết việc Ly hôn, có đơn xin giải quyết và xét xử vắng mặt. Tòa án đã tiến hành đưa vụ án ra xét xử theo thủ tục chung thực hiện theo quy định tại Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự. Về quan điểm giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; điểm a, khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N), yêu cầu ly hôn với anh Văn Trọng Đ; giao cháu Văn Thị Minh C, sinh ngày 29/3/2016, cháu thứ hai tên là Văn Đại G, sinh ngày 03/9/2017 cho anh Văn Trọng Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục, chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N) có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cháu Văn Đại G mỗi tháng là 1.500.000 đồng; về tài sản chung, nợ chung không yêu cầu Tòa án giải quyết; đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Theo đơn khởi kiện và yêu cầu, đề nghị của các đương sự. Hội đồng xét xử xác định đây là vụ án “Ly hôn” do nguyên đơn chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N) khởi kiện đối với bị đơn anh Văn Trọng Đ có nơi cư trú Tk1, thị trấn B, huyện B, tỉnh Sơn La. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Sơn La.

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N) và bị đơn anh Văn Trọng Đ đã được thông báo, triệu tập hợp lệ nhưng hai bên đương sự đều có đơn xin giải quyết, xét xử vắng có lý do, nên Tòa án không tiến hành thủ tục hòa giải và quyết định xét xử vắng mặt chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N), anh Văn Trọng Đ theo quy định tại khoản 1 Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[3] Về quan hệ hôn nhân: chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh Ng) và anh Văn Trọng Đ có tìm hiểu nhau và đi đến kết hôn có đăng ký kết hôn ngày 28/12/2015 tại Ủy ban nhân dân thị trấn B, huyện B, tỉnh Sơn La trên cơ sở tự nguyện. Cuộc sống chung của vợ chồng hạnh phúc đến năm 2019 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân của mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung; hai vợ chồng bắt đầu sống ly thân từ năm 2019 đến nay. Khi phát sinh mâu thuẫn đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng không thành. Nhận thấy, từ năm 2019 đến nay chị N, anh Đ không còn chung sống với nhau, tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được, bản thân anh Đ cũng xác định không còn tình cảm với chị N, và xin được ly hôn với chị N. Do vậy, cần căn cứ vào khoản 1 Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị N và anh Đ.

[4] Về con chung, cấp dưỡng nuôi con chung: Trong thời gian chung sống chị N và anh Đ có hai con chung cháu thứ nhất tên là Văn Thị Minh C, sinh ngày 29/3/2016, cháu thứ hai tên là Văn Đại G, sinh ngày 03/9/2017, hiện hai cháu đang ở với anh Đ tại tk1, thị trấn B. Anh Đ có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cả hai cháu, yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con chung đối với cháu Văn Đại G mỗi tháng là 1.500.000 đồng cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Bản thân chị N cũng có nguyện vọng giao cháu Văn Thị Minh C và Văn Đại G cho anh Văn Trọng Đ trực tiếp nuôi dưỡng và có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cháu Văn Đại G mỗi tháng là 1.500.000 đồng cho đến khi cháu trưởng thành đủ 18 tuổi. Hiện tại cả hai cháu Văn Thị Minh Châu và Văn Đại Gia đang ở với bố tại Tk1, thị trấn B, huyện B, tỉnh Sơn La. Do đó, để đảm bảo sự ổn định, lợi ích mọi mặt của các cháu Văn Thị Minh C và Văn Đại G, cần giao cho anh Văn Trọng Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi các cháu trưởng thành, đủ 18 tuổi theo quy định tại Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chị Tráng Minh Nt có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cháu Văn Đại G mỗi tháng là 1.500.000 đồng cho đến cháu trưởng thành, đủ 18 tuổi. Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ chăm nom con mà không ai được cản trở.

[5] Về tài sản chung: Chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N) và anh Văn Trọng Đ đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết về tài sản chung trong vụ án.

[6] Về vay nợ chung: Chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N) và anh Văn Trọng Đ xác định không có nợ chung, đều không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[7] Về án phí: Do chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N) không thuộc trường hợp được miễn, giảm án phí dân sự sơ thẩm. Do đó, nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch theo quy định điểm a, khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238, Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Khoản 1 Điều 51, Điều 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Điểm a, khoản 5, điểm a khoản 6 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N) được ly hôn với anh Văn Trọng Đ.

2. Về con chung: Giao cháu Văn Thị Minh C, sinh ngày 29/3/2016 và cháu Văn Đại G, sinh ngày 03/9/2017 cho anh Văn Trọng Đ trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N) có trách nhiệm cấp dưỡng nuôi con chung cho cháu Văn Đại G mỗi tháng là 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng), thời điểm cấp dưỡng tính từ tháng 10/2022 cho đến khi cháu Văn Đại G trưởng thành, đủ 18 tuổi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

3. Về tài sản chung và vay nợ chung: Đương sự không yêu cầu, Tòa án không giải quyết trong vụ án.

4. Về án phí: Chị Tráng Minh N (Nguyễn Minh N) phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000.đ (Ba trăm nghìn đồng) và án phí cấp dưỡng nuôi con chung là 300.000.đ (Ba trăm nghìn đồng). Tổng cộng cả hai khoản án phí phải nộp là 600.000.đ (Sáu trăm nghìn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp là 300.000.đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số AA/2021/0001384 ngày 01/8/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Sơn La, còn phải nộp tiếp số tiền là 300.000.đ (Ba trăm nghìn đồng).

Đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo Bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án theo quy định chung của pháp luật.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự, thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

79
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 13/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:13/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bắc Yên - Sơn La
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 06/09/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;