Bản án về ly hôn số 12/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÙ ĐĂNG, TỈNH BÌNH PHƯỚC

BẢN ÁN 12/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/02/2022 VỀ LY HÔN

Trong ngày 17 tháng 02 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 453/2021/TLST - HNGĐ ngày 20 tháng 12 năm 2021, về việc “Ly hôn”. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 16/2022/QĐST – HNGĐ ngày 28 tháng 01 năm 2022 giữa:

- Nguyên đơn: Chị Điểu Thị H, sinh năm: 1990 Nơi cư trú: Thôn 2, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước

- Bị đơn: Anh Điểu H, sinh năm: 1989 Nơi cư trú: Thôn 2, xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước (Nguyên đơn có mặt; Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 10 tháng 12 năm 2021 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Điểu Thị H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Điểu H tự nguyện tìm hiểu và chung sống với nhau từ năm 2016. Đến năm 2020 chị và anh Điểu H tiến hành đăng ký kết hôn và đã được Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước cấp giấy đăng ký kết hôn số 14, ký ngày 29/4/2020. Mâu thuẫn của vợ chồng phát sinh từ lúc mới chung sống. Anh Điểu H luôn tìm hiểu quá khứ của chị rồi ghen tuông vô cớ. Anh Điểu H thường xuyên say xỉn, không chăm lo làm ăn. Thời gian về sau thì mâu thuẫn càng lúc càng trầm trọng hơn, anh Điểu H luôn cho rằng chị ngoại tình, cấm đoán chị trong việc giao lưu với bạn bè, họ hàng. Lần gần đây nhất là ngày 12/10/2021 anh Điểu H ghen tuông, có nhiều hành động quá khích và đe dọa về tính mạng của chị và gia đình chị. Sau đó anh Điểu H bỏ về nhà bố mẹ ruột sinh sống và vợ chồng sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay, chị nhận thấy vợ chồng không thể tiếp tục chung sống nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Điểu H.

Về con chung: Chị và anh Điểu H có hai con chung tên là Điểu Thị Bảo A sinh ngày 5/1/2012 và Điểu Thị Bảo Ng sinh ngày 5/6/2013. Từ khi vợ chồng sống ly thân cho đến nay hai cháu sống với chị nên sau khi giải quyết ly hôn chị có nguyện vọng tiếp tục nuôi dưỡng hai cháu Về cấp dưỡng: Không yêu cầu giải quyết Về tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết Bị đơn anh Điểu H vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình giải quyết vụ án anh Điểu H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Điểu Thị H tìm hiểu, chung sống từ năm 2009 và có tiến hành đăng ký kết hôn. Sau một thời gian chung sống thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là từ năm 2019 anh và chị Điểu Thị H đi làm công ty tại tỉnh Bình Dương thì anh phát hiện chị Điểu Thị H có mối quan hệ tình cảm với người khác. Đến năm 2020 vợ chồng về lại địa phương sinh sống thì anh phát hiện chị Điểu Thị H nhắn tin thân mật với người khác nên anh về nhà bố mẹ sống cho đến nay. Ngoài việc chị Điểu Thị H ngoại tình thì vợ chồng anh không có mâu thuẫn nào khác. Nay chị Điểu Thị H yêu cầu giải quyết ly hôn, anh không đồng ý. Anh có nguyện vọng đoàn tụ với chị Điểu Thị H.

Về con chung: Anh nhất trí với lời khai của chị Điểu Thị H về con chung. Trường hợp Tòa án giải quyết ly hôn, anh có nguyện vọng nuôi dưỡng hai con.

Về cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu giải quyết Về chia tài sản chung: Vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về nợ chung: Vợ chồng không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện B, tỉnh Bình Phước phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm nghị án. Tại phiên tòa, bị đơn vắng mặt lần thứ nhất nhưng có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt nên Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, căn cứ vào Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn chị Điểu Thị H.

Về con chung: Căn cứ Điều 81, 82 và 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình giao cháu Điểu Thị Bảo A sinh ngày 5/1/2012 và Điểu Thị Bảo Ng sinh ngày 5/6/2013 cho chị Điểu Thị H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Về cấp dưỡng: Không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết. Về chia tài sản chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào lời khai của các đương sự và kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Điểu H (là bị đơn) vắng mặt và có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Theo quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vắng mặt anh Điểu H.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Điểu Thị H và anh Điểu H đều khai nhận anh chị có đăng ký kết hôn và đã được Uỷ ban nhân dân Uỷ ban nhân dân xã Đ, huyện B, tỉnh Bình Phước cấp giấy đăng ký kết hôn số 14, ký ngày 29/4/2020. Lời khai của chị Điểu Thị H và anh Điểu H phù hợp với Giấy chứng nhận kết hôn đã được giao nộp hợp pháp (bút lục số 08). Khoản 1 Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình quy định: “Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch”. Vì vậy, quan hệ hôn nhân giữa chị Điểu Thị H và anh Điểu H là hợp pháp.

[3] Về yêu cầu giải quyết ly hôn của nguyên đơn chị Điểu Thị H:

Theo lời khai của chị Điểu Thị H thì cuộc sống hôn nhân của chị và anh Điểu H không hạnh phúc nên chị yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn. Quá trình giải quyết vụ án, anh Điểu H khai nhận mâu thuẫn vợ chồng là có. Nguyên nhân là do chị Điểu Thị H có mối quan hệ bất chính với người khác. Tuy nhiên, hiện nay anh Điểu H còn thương yêu chị Điểu Thị H nên anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ.

Xét, mâu thuẫn của vợ chồng: Theo lời khai của chị Điểu Thị H thì nguyên nhân dẫn đến mâu thuẫn của vợ chồng là do anh Điểu H không chí thú làm ăn, thường xuyên ghen tuông vô cớ, có lời lẽ hành động đe dọa tính mạng của chị. Lời khai của chị Điểu Thị H phù hợp với lời khai của người làm chứng. Mặt khác, tại biên bản lập ngày 8/2/2021 (bút lục số 30b) do chị Điểu Thị H cung cấp có nội dung: “Giải quyết việc gia đình hai bên có mâu thuẫn giữa tôi và vợ tôi. Kể từ này về sau tôi hứa sẽ sửa đổi mọi việc”. Như vậy, có đủ căn cứ xác định giữa anh Điểu H và chị Điểu Thị H có mâu thuẫn. Tại Điều 19 của Luật Hôn nhân và gia đình quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình”. Như vậy, anh Điểu H đã vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ của người chồng làm cho hôn nhân của anh chị lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Quá trình giải quyết vụ án, anh Điểu H khai nhận anh còn thương yêu chị Điểu Thị H nên mong muốn đoàn tụ. Tuy nhiên, anh Điểu H thừa nhận vợ chồng sống ly thân khoảng 06 tháng và trong thời gian vừa qua anh không có tác động để hàn gắn tình cảm, tháo gỡ mâu thuẫn gia đình để cùng với chị Điểu Thị H xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc. Như vậy, đối với yêu cầu đoàn tụ của anh Điểu H không có cơ sở chấp nhận. Do đó, căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Điểu Thị H.

[4] Về con chung: Chị Điểu Thị H và anh Điểu H khai nhận vợ chồng có 02 con chung tên là Điểu Thị Bảo A sinh ngày 5/1/2012 và Điểu Thị Bảo Ng sinh ngày 5/6/2013. Lời khai của chị Điểu Thị H và anh Điểu H phù hợp với giấy khai sinh đã được giao nộp hợp pháp. Chị Điểu Thị H và anh Điểu H đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng hai cháu. Xét, Điểu Thị Bảo A và Điểu Thị Bảo Ng là bé gái, tuổi còn nhỏ cần sự chăm sóc, trông nom trực tiếp thường xuyên của cha hoặc mẹ. Quá trình giải quyết vụ án, anh Điểu H vắng mặt không tham gia tố tụng và không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Trong khi đó, theo tài liệu chị Điểu Thị H cung cấp cho Tòa án cho thấy chị Điểu Thị H có nơi ở, công việc và nguồn thu nhập ổn định. Bên cạnh đó, hai cháu có nguyện vọng được chị Điểu Thị H trực tiếp chăm sóc. Do đó, xuất phát từ lợi ích về mọi mặt của cháu Điểu Thị Bảo A và cháu Điểu Thị Bảo Ng theo quy định vào khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình cần giao cháu Điểu Thị Bảo A và cháu Điểu Thị Bảo Ng cho chị Điểu Thị H trực tiếp nuôi dưỡng.

Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Điểu H, chị Điểu Thị H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.

[5] Về chia tài sản chung: Anh Điểu H, chị Điểu Thị H đều khai nhận anh chị không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[6] Về nợ chung: Anh Điểu H, chị Điểu Thị H đều khai nhận anh chị không có nợ chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[7] Về án phí: Khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng Dân sự quy định: “Trong vụ án ly hôn thì nguyên đơn phải chịu án phí sơ thẩm, không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn”. Do đó, nguyên đơn chị Điểu Thị H phải nộp tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm.

[8] Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định tại Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ vào các Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

- Căn cứ khoản 1 Điều 28; Điều 35; Điều 39; khoản 4 Điều 147; Điều 266; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH16 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí của Tòa án ngày 30/12/2016.

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Điểu Thị H. Chị Điểu Thị H được ly hôn với anh Điểu H.

2. Về con chung: Giao cháu Điểu Thị Bảo A sinh ngày 5/1/2012 và Điểu Thị Bảo Ng sinh ngày 5/6/2013 cho chị Điểu Thị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh Điểu H có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi; có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Vì lợi ích của con chưa thành niên, các bên có quyền làm đơn xin thay đổi người nuôi con theo quy định của pháp luật.

3. Về cấp dưỡng nuôi con: Anh Điểu H, chị Điểu Thị H không yêu cầu giải quyết nên không xem xét giải quyết.

4. Về tài sản chung: Anh Điểu H, chị Điểu Thị H không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

5. Về nợ chung: Anh Điểu H, chị Điểu Thị H không có nợ chung, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

6. Về án phí: Nguyên đơn chị Điểu Thị H phải nộp 300.000đ tiền án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà chị đã nộp trước là 300.000đ theo biên lai thu tiền số 0000200 ký ngày 20 tháng 12 năm 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện B, tỉnh Bình Phước (đã nộp xong).

7. Quyền kháng cáo: Đương sự có quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (ngày 17/02/2022). Đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

140
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 12/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:12/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bù Đăng - Bình Phước
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/02/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;