Bản án về ly hôn số 12/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN XUÂN TRUỜNG, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 12/2021/HNGĐ-ST NGÀY 20/01/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 20 tháng 01 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Xuân Trường xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 167/2020/TLST-HNGĐ ngày 01/12/2020 về việc “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 07/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 07/01/2021, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Q, sinh năm 1988; địa chỉ: Xóm 2, xã XC, huyện XT, tỉnh Nam Định;

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1983; địa chỉ: Xóm 2, xã XC, huyện XT, tỉnh Nam Định.

(Chị Q, anh T đều có đơn xin xét xử vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện và lời khai tại Toà án, nguyên đơn chị Bùi Thị Q trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Văn T tự nguyện tìm hiểu và kết hôn, đã được Uỷ ban nhân dân xã XC, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định cấp Giấy chứng nhận kết hôn ngày 25/11/2006. Trong cuộc sống vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, cãi chửi nhau do tính tình, lối sống không hòa hợp, bất đồng quan điểm; nhiều khi anh T còn đánh đập chị. Gia đình hai bên cũng đã động viên nhiều lần để vợ chồng hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả. Nay chị xác định không còn tình cảm với anh T, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng không có cách giải quyết, hôn nhân không có hạnh phúc nên nguyện vọng của chị xin được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị và anh T có 02 con chung là Nguyễn Tiến T, sinh ngày 17/12/2007 và Nguyễn Hương G, sinh ngày 23/5/2012. Trường hợp ly hôn, chị xin nhận trực tiếp nuôi dưỡng cháu G, nhường quyền nuôi dưỡng cháu T cho anh T; chị và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Về tài sản: Khi làm đơn khởi kiện, chị có yêu cầu chia tài sản chung là 100.000.000đ đã góp tiền xây dựng nhà với bố mẹ, nhưng trong quá trình giải quyết chị đã rút yêu cầu và không đề nghị Tòa án giải quyết về tài sản nữa.

Theo bản tự khai tại Tòa án, bị đơn anh Nguyễn Văn T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Bùi Thị Q tự nguyện tìm hiểu, kết hôn như chị Q trình bày là đúng. Trong cuộc sống, giữa hai vợ chồng nhiều khi xảy ra mâu thuẫn do tính tình, lối sống không hòa hợp; nhiều khi nóng giận anh có tát chị Q vài cái. Gia đình đã tác động nhiều để vợ chồng hàn gắn tình cảm nhưng không có kết quả. Nay chị Q làm đơn xin ly hôn anh thì anh không nhất trí ly hôn với chị Q vì anh thấy mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức phải ly hôn. Trường hợp chị Q vẫn quyết tâm ly hôn anh thì anh cũng nhất trí ly hôn với chị Q.

Về con chung: Anh và chị Q có 02 con chung như chị Q trình bày. Trường hợp ly hôn, anh nhất trí với ý kiến của chị Q về việc nuôi con chung khi ly hôn, anh xin nhận trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Tiến T, nhường quyền nuôi dưỡng cháu Nguyễn Hương G cho chị Q; anh và chị Q không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau.

Về tài sản: Anh không đề nghị Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Xuân Trường tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và Hội đồng xét xử, các đương sự tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án đến trước khi Hội đồng xét xử nghỉ nghị án đảm bảo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng đều có đơn đề nghị xét xử vắng mặt nên Tòa án xét xử vắng mặt các đương sự là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Bùi Thị Q, xử cho ly hôn giữa chị Bùi Thị Q và anh Nguyễn Văn T; giao cháu Nguyễn Tiến T, sinh ngày 17/12/2007 cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp nuôi dưỡng; giao cháu Nguyễn Hương G, sinh ngày 23/5/2012 cho chị Bùi Thị Q trực tiếp nuôi dưỡng. Chị Q và anh T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau và có quyền thăm nom con chung sau khi ly hôn mà không ai được cản trở.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn và bị đơn vắng mặt tại phiên tòa nhưng đều có đơn xin xét xử vắng mặt. Vì vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xử vắng mặt các đương sự là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị Bùi Thị Q và anh Nguyễn Văn T kết hôn hợp pháp. Cuộc sống vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, không có hạnh phúc do tính tình, lối sống không hòa hợp, vợ chồng bất đồng quan điểm và đôi khi xảy ra xô xát; gia đình đã tác động nhiều lần để vợ chồng hàn gắn tình cảm, cùng nhau nuôi dạy con cái nhưng không có kết quả. Chị Q xin ly hôn anh T, anh T không nhất trí ly hôn chị Q nhưng trong quá trình giải quyết vụ án chị Q không thay đổi ý kiến và đề nghị Tòa án không tiến hành hòa giải; điều đó chứng tỏ mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không có cách giải quyết. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị Q đối với anh T, phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về việc nuôi con chung: Chị Q và anh T có 02 con chung là Nguyễn Tiến T, sinh ngày 17/12/2007 và Nguyễn Hương G, sinh ngày 23/5/2012. Khi ly hôn, các đương sự đều thống nhất để chị Q trực tiếp nuôi dưỡng cháu G, anh T trực tiếp nuôi dưỡng cháu T và không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau. Vì vậy, căn cứ vào nguyện vọng của các đương sự, Hội đồng xét xử giao cháu T cho anh T nuôi dưỡng, giao cháu G cho chị Q nuôi dưỡng là phù hợp.

[4] Về tài sản: Chị Q tự nguyện rút yêu cầu nên Hội đồng xét xử đình chỉ đối với yêu cầu này.

[5] Về án phí: Chị Q phải nộp án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83 của Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho ly hôn giữa chị Bùi Thị Q và anh Nguyễn Văn T.

2. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Tiến T, sinh ngày 17/12/2007 cho anh Nguyễn Văn T trực tiếp trong nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục; giao cháu Nguyễn Hương G, sinh ngày 23/5/2012 cho chị Bùi Thị Q trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Chị Bùi Thị Q và anh Nguyễn Văn T không phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau và có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung sau khi ly hôn mà không ai được cản trở.

3. Về tài sản: Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu chia tài sản của chị Bùi Thị Q đối với anh Nguyễn Văn T.

4. Về án phí: Chị Bùi Thị Q phải nộp án phí ly hôn là 300.000đ, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 2.800.000đ đã nộp theo biên lai thu số 0001943 ngày 01/12/2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định; chị Q đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm. Hoàn lại cho chị Bùi Thị Q số tiền 2.500.000đ (hai triệu năm trăm nghìn đồng).

5. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

142
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 12/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:12/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Xuân Trường - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 20/01/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;