TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG
BẢN ÁN 114 /2021/HNGĐ-ST NGÀY 02/08/2021 VỀ LY HÔN
Ngày 02 tháng 8 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình sơ thẩm thụ lý số135/2021/HNGĐ-ST ngày 24 tháng 6 năm 2021 về việc ly hôn, theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 123/2021/QĐXXST - HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2021giữa:
1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị A, sinh ngày 30/12/1993.
ĐKHKTT : Thôn Đ, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương (vắng mặt).
2. Bị đơn : Anh Đinh Văn Th, sinh ngày 30/4/1993.
Nơi cư trú trước khi xuất cảnh : Thôn Đ, xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương.
Hiện đang lao động tại Nhật Bản (vắng mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
- Theo đơn xin ly hôn, bản tự khai - Nguyên đơn chị Nguyễn Thị A trình bầy: Chị và anh Th là người cùng xã, hai bên có quen biết từ trước, thời gian anh Th đi Nhật Bản lao động cả hai đã liên lạc với nhau. Đầu năm 2017 anh Th về Việt Nam khoảng 10 ngày để làm thủ tục đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương ngày 02/2/2017, sau đó anh Th tiếp tục sang Nhật Bản lao động. Gia đình hai bên chưa tổ chức đám cưới theo phong tục tập quán. Từ khi sang Nhật Bản đến nay chị và anh Th chưa gặp nhau lần nào, do chị không làm được thủ tục sang Nhật Bản nên vợ chồng không có cơ hội để đoàn tụ. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh Th.
Về con chung: Chị và anh Th chưa có con chung nên không đề nghị Tòa án giải quyết.
Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng không có, ly hôn không đề nghị Tòa án giải quyết.
Quá trình giải quyết vụ án, chị A xác định hiện tại anh Th đang lao động tại Nhật Bản, nhưng chị không biết địa chỉ để cung cấp cho Tòa án.Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã lấy lời khai của bà Vũ Thị T là mẹ đẻ của anh Th, đồng thời yêu cầu bà T cung cấp địa chỉ của anh Th ở nước ngoài. Bà T xác định hiện nay anh Th đang lao động tại Nhật Bản nhưng bà không biết địa chỉ cụ thể, nên không thể cung cấp cho Tòa án, tuy nhiên anh Th thường xuyên liên lạc về gia đình. Việc chị A làm đơn ly hôn anh Th bà và gia đình đều biết, hai bên mới đăng ký kết hôn nhưng chưa tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán. BàT đồng ý nhận các văn bản tố tụng của Tòa án và có trách nhiệm thông tin cho anh Th. Sau khi nhận các văn bản tố tụng của Tòa án, bà T đã thông tin cho anh Th, anh Th có quan điểm xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh đồng ý ly hôn. Về con chung, tài sản chung, nợ chung : Không có, ly hôn không đề nghị Tòa án giải quyết. Do không về Việt Nam tham gia tố tụng được nên anh Th đề nghị được giải quyết vắng mặt.
Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương phát biểu quan điểm: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn cơ bản đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.
Về đường lối giải quyết: Căn cứ các tài liệu có trong hồ sơ cho thấy mâu thuẫn của chị A và anh Th đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện, xử cho chị A được ly hôn anh Th; Về án phí: chị A phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, xem xét ý kiến của các đương sự, quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hải Dương, Hội đồng xét xử nhận định:
[1].Về tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, chị A không cung cấp được địa chỉ của anh Th tại Nhật Bản. Theo hướng dẫn tại Công văn số 253/TANDTC-PC ngày 26/11/2018 của Tòa án nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương đã hai lần yêu cầu gia đình anh Th cung cấp địa chỉ, nhưng gia đình không cung cấp được. Tuy nhiên bà Vũ Thị T là mẹ đẻ của anh Th xác định anh Th vẫn thường xuyên liên lạc với gia đình. Do vậy,Tòa án tiến hành giải quyết theo thủ tục cố tình giấu địa chỉ.
Trong quá trình giải quyết Tòa án đã tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo quy định của pháp luật, đồng thời giao các văn bản tố tụng cho gia đình anh Th. Thông qua gia đình anh Th có quan điểm xin được xét xử vắng mặt. Chị A cũng có đơn xin được xét xử vắng mặt nên căn cứ khoản 1 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt chị A và anh Th.
[2]. Về nội dung:
- Về quan hệ hôn nhân: Chị Nguyễn Thị A và anh Đinh Văn Th tự do tìm hiểu có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện N, tỉnh Hải Dương ngày 02 tháng 02 năm 2017, do vậy hôn nhân của anh chị là hợp pháp. Sau khi đăng ký kết hôn anh Th đã quay trở lại Nhật Bản lao động. Do chị A không sang Nhật Bản đoàn tụ được với chồng, anh Th cũng không về Việt Nam được nên tình cảm vợ chồng ngày càng xa cách, không tìm thấy tiếng nói chung. Nay chị A xác định tình cảm vợ chồng không còn và có đơn xin ly hôn anh Th. Thông qua gia đình anh Th cũng có quan điểm đồng ý ly hôn. Xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, có căn cứ chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị A.
- Về con chung: Anh chị không có con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét.
- Về tài sản chung, nợ chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[3].Về án phí: Chị Nguyễn Thị A phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì những lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Áp dụng Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 147, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; Luật Phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu án phí, lệ phí Tòa án. Xử:
1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Nguyễn Thị A được ly hôn anh Đinh Văn Th.
2.Về con chung: Không có, nên không xem xét.
3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không xem xét.
4. Về án phí: chị Nguyễn Thị A phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, được đối trừ số tiền tạm ứng án phí 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) chị A đã nộp, theo biên lai thu số AA/2018/0006371 ngày 24 tháng 6 năm 2021 tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương. Chị A đã nộp đủ án phí.
5. Về quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị A được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Anh Đinh Văn Th được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.
Bản án về ly hôn số 114/2021/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 114/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Hải Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 02/08/2021 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về