Bản án về ly hôn số 105/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG

BẢN ÁN 105/2022/HNGĐ-ST NGÀY 24/06/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 24 tháng 6 năm 2022 tại Trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 94/2022/TLST-HNGĐ ngày 12/4/2022 về Ly hôn theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 106/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 24 tháng 5 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số 84/2022/QĐST-HNGĐ ngày 10 tháng 6 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Lưu Thị Cẩm H, sinh năm 1977.

Nơi ĐKHKTT: Số 3, phố T, phường Q, thành phố H, tỉnh Hải Dương. Địa chỉ hiện nay: Căn hộ số A28-02 chung cư H, số 72 H, tổ 29 phường T, quận T, thành phố Đà Nẵng (Vắng mặt, đề nghị xét xử vắng mặt).

2. Bị đơn: Anh Đỗ Tuấn A, sinh ngày 12/8/1976.

Địa chỉ trước khi xuất cảnh: Số 5A, phố A, phường Q, thành phố H, tỉnh Hải Dương.

Nơi cư trú hiện nay: New Zealand (Vắng mặt).

3. Người làm chứng: Ông Đỗ Quốc D, sinh năm 1965. Địa chỉ: Số 1C T, phường T, thành phố H, tỉnh Hải Dương (Vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Lưu Thị Cẩm H trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Tuấn A tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND thành phố Hải Phòng vào ngày 05 tháng 8 năm 2011. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh Tuấn A ở số 5A An Ninh, phường Quang Trung, thành phố Hải Dương và không có mâu thuẫn gì. Tuy nhiên vợ chồng chỉ chung sống được 01 tháng thì anh Tuấn A phải quay lại New Zealand làm ăn. Từ khi anh Tuấn A quay lại New Zealand đến nay đã được 11 năm nhưng anh Tuấn A không hề liên lạc gì với chị Hvà hoàn toàn cắt đứt mọi liên lạc với chị. Chị H và anh Tuấn A đã ly thân từ đó đến nay, không ai còn tình cảm với ai. Nay chị H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nữa, không có khả năng hàn gắn. Chị H đề nghị tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Tuấn A để chị có thể ổn định được cuộc sống mới.

Về quan hệ con chung: Chị H và anh Tuấn A không có con chung nên chị Hkhông đề nghị tòa án giải quyết về con chung.

Về quan hệ tài sản chung: Chị H và anh Tuấn A không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tại các biên bản lấy lời khai, chú ruột của anh Đỗ Tuấn A là ông Đỗ Quốc D trình bày: Anh Tuấn A là cháu ruột của ông D, chị H là vợ anh Tuấn A và là cháu dâu của ông D. Anh Tuấn A và chị H tự do tìm hiểu và có đăng ký kết hôn. Mâu thuẫn của anh Tuấn A và chị H cụ thể thì ông cũng không nắm được. Anh Tuấn A hiện đang sống tại New Zealand. Địa chỉ trong Đăng kí kết hôn của anh Tuấn A và chị H hiện anh Tuấn A không còn ở đó, vì điều kiện công việc anh Tuấn A đã chuyển đi sinh sống ở nhiều nơi khác nhau. Do anh Tuấn A không nói địa chỉ cụ thể hiện nay nên ông không cung cấp địa chỉ cụ thể của anh Tuấn A tại New Zealand cho Tòa án được. Ông và gia đình vẫn thường xuyên liên lạc với anh Tuấn A. Do bố mẹ đẻ anh Tuấn A đã mất từ lâu nên ông D là chú ruột anh Tuấn A xác định nhận các văn bản tố tụng của Tòa án để thông báo cho anh Tuấn A biết việc chị H đang yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, đồng thời thông báo nội dung các văn bản tố tụng của tòa án cho anh Tuấn A biết. Qua trao đổi thì ông được anh Tuấn A cho biết anh Tuấn A có quan điểm rằng vợ chồng ly thân đã lâu, nay chị H xin ly hôn thì anh Tuấn A đồng ý ly hôn với chị H. Anh Tuấn A xác định vợ chồng không có con chung nên anh Tuấn A không đề nghị tòa án giải quyết về con chung. Anh Tuấn A xác định vợ chồng không có tài sản chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Do điều kiện công việc thường xuyên thay đổi địa chỉ nên anh Tuấn A không thể cung cấp địa chỉ cụ thể, đề nghị Tòa án giải quyết vắng mặt anh Tuấn A và tống đạt các văn bản thông qua chú ruột anh là ông Đỗ Quốc D. Ông D đồng ý nhận thay để thông báo cho anh Tuấn A. Ngoài ra ông không trình bày hay có yêu cầu gì khác.

Tại phiên tòa các đương sự đều vắng mặt.

Đại diện VKSND tỉnh Hải Dương phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án, trong thời hạn chuẩn bị xét xử đến khi xét xử tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân, Thư ký phiên tòa cũng như những người tham gia tố tụng cơ bản tuân thủ đúng quy định của pháp luật tố tụng.

- Về hướng giải quyết vụ án: Đề nghị HĐXX xử chấp nhận cho chị Lưu Thị Cẩm H ly hôn anh Đỗ Tuấn A. Chị H phải nộp 300.000đ án phí ly hôn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng:

Về thẩm quyền thụ lý và giải quyết: Chị Lưu Thị Cẩm H yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với anh Đỗ Tuấn A là người Việt Nam hiện đang sống tại New Zealand, có hộ khẩu thường trú tại tỉnh Hải Dương. Căn cứ quy định tại điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm c khoản 1 Điều 40 BLTTDS, Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương thụ lý và giải quyết vụ án là đúng thẩm quyền.

Theo Công văn của Cục quản lý xuất nhập cảnh, anh Tuấn A xuất cảnh vào ngày 03/8/2016. Từ đó đến nay anh Tuấn A chưa nhập cảnh lần nào.

Về việc tống đạt các văn bản tố tụng cho bị đơn: Chị H chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng của anh Tuấn A ở Việt Nam nhưng không cung cấp được địa chỉ của anh Tuấn A tại nước ngoài. Tòa án đã yêu cầu chú ruột của anh Tuấn A là ông Đỗ Quốc D cung cấp địa chỉ của anh Tuấn A đến lần thứ hai nhưng ông D cũng không biết địa chỉ của anh Tuấn A tại New Zealand. Tuy nhiên ông D vẫn liên lạc được với anh Tuấn A nên đã nhận các văn bản tố tụng để thông báo cho anh Tuấn A. Đồng thời, Tòa án cũng tiến hành niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật.

Về sự vắng mặt của đương sự: Tại phiên tòa chị H vắng mặt, đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; anh Tuấn A vắng mặt mặc dù đã được Tòa án thông báo qua thân nhân và niêm yết các văn bản tố tụng theo đúng quy định. Do đó, HĐXX căn cứ vào khoản 1, khoản 2 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt chị H, anh Tuấn A là phù hợp.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Chị H và anh Tuấn A tự do tìm hiểu và tự nguyện đăng ký kết hôn tại UBND thành phố Hải Phòng vào ngày 05 tháng 8 năm 2011 nên được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống tại gia đình anh Tuấn A. Tuy nhiên vợ chồng chỉ chung sống được 01 tháng thì anh Tuấn A phải quay lại Newzealand làm ăn. Từ khi anh Tuấn A quay lại Newzealand đến nay đã được 11 năm nhưng anh Tuấn A không hề liên lạc gì với chị H và hoàn toàn cắt đứt mọi liên lạc với chị. Chị H và anh Tuấn A đã ly thân từ đó đến nay, không ai còn tình cảm với ai.

Xét thấy hôn nhân của chị H và anh Tuấn A đã lâm vào tình trạng trầm trọng, vợ chồng ly thân nhiều năm, không ai quan tâm đến ai, mục đích hôn nhân không đạt được. Thông qua ông D thì anh Tuấn A cũng xác định vợ chồng ly thân đã lâu, đồng ý ly hôn với chị H nên cần chấp nhận cho chị H ly hôn với anh Tuấn A là phù hợp quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Chị H và anh Tuấn A xác định vợ chồng không có con chung, không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xét.

[4] Về quan hệ tài sản chung: Chị H và anh Tuấn A xác định vợ chồng không có tài sản chung, không yêu cầu giải quyết nên HĐXX không xét.

[5] Về án phí: Chị H là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 273, khoản 2 Điều 479 BLTTDS.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm d khoản 1 Điều 469, khoản 1 Điều 28, khoản 3 Điều 35, điểm c khoản 1 Điều 37, điểm a khoản 1 Điều 39, điểm c khoản 1 Điều 40, khoản 4 Điều 147, khoản 1 và khoản 2 Điều 228, Điều 235, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015;

Căn cứ Điều 51, Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình 2014;

Căn cứ Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Lưu Thị Cẩm H được ly hôn anh Đỗ Tuấn A.

2. Về án phí: Chị Lưu Thị Cẩm H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) án phí sơ thẩm ly hôn, đối trừ với 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền tạm ứng án phí chị H đã nộp tại Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hải Dương, theo biên lai thu số AA/2021/0000043 ngày 07/4/2022. Chị H đã nộp đủ án phí.

3. Về quyền kháng cáo: Chị Lưu Thị Cẩm H quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, anh Đỗ Tuấn A được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 01 tháng, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ, hoặc từ ngày bản án được niêm yết hợp lệ theo quy định của pháp luật.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

178
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 105/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:105/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hải Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/06/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;