TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ NHA TRANG, TỈNH KHÁNH HÒA
BẢN ÁN 103/2022/HNGĐ-ST NGÀY 15/08/2022 VỀ LY HÔN
Ngày 15 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa, xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số: 280/2022/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 3 năm 2022, về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 84/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 20 tháng 7 năm 2022, Thông báo dời thời gian xét xử vụ án số 19/2022/TB-TA ngày 03 tháng 8 năm 2022, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Bùi Ngọc T, sinh năm 1996.
HKTT: Thôn T1, xã Vĩnh P, thành phố N, tỉnh Khánh H.
Địa chỉ hiện nay: 2/34 Lịch Đ1, phường Đ2, thành phố H1, tỉnh A (có mặt).
- Bị đơn: Ông Nguyễn Quốc Đ, sinh năm 1992.
HKTT và địa chỉ hiện nay: Tổ 3, thôn Phú B, xã Vĩnh T1, thành phố N, tỉnh Khánh H (có mặt).
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 10/3/2022 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Bùi Ngọc T trình bày:
Bà và ông Nguyễn Quốc Đ tự nguyện tìm hiểu, chung sống với nhau và đăng ký kết hôn ngày 19/12/2018 tại Ủy ban nhân dân xã Vĩnh T1, thành phố N. Trong quá trình chung sống, do không tìm được tiếng nói chung nên cả hai thường xuyên cãi vã, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc. Do nhiều lần bị chồng đánh nên đến ngày 01/9/2020 bà đưa con trai chung - cháu Nguyễn Đức Tùng L về quê ngoại tại địa chỉ số 2/34 Lịch Đ1, phường Đ2, thành phố H1, tỉnh A và sống ổn định ở đó đến nay. Bà xác định vợ chồng không còn tình cảm nên yêu cầu Tòa án cho bà được ly hôn với ông Đ.
Về con chung: Bà và ông Đ có một con chung là Nguyễn Đức Tùng L, sinh ngày 10/10/2018. Từ khi vợ chồng không sống chung với nhau thì bà là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu L. Hiện nay bà có công việc ổn đình là làm kỹ thuật viên tại cơ sở dạy nghề về spa ở Huế, thu nhập trung bình hàng tháng từ 6.000.000 đồng đến 6.200.000 đồng. Khi ly hôn, bà có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu L và không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung và nợ chung: Bà T xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Trong qua trinh tố tuṇ g, bi ̣ đơn ông Nguyễn Quốc Đ trinh bay:
Ông Đ xác nhận về thời gian, địa điểm đăng ký kết hôn cũng như cuộc sống hôn nhân của cả hai như bà T trình bày. Trong thời gian chung sống ông thừa nhận có vài lần nóng giận và đánh bà T do bất đồng cách nuôi dạy con. Nay, bà T xin ly hôn, ông đồng ý.
Về con chung: Ông và bà T có một con chung là Nguyễn Đức Tùng L, sinh ngày 10/10/2018. Khi bà T dẫn con trai về Huế sinh sống không cho ông biết địa chỉ nên ông không gặp được con. Đến khi bà T nộp đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn thì mới liên lạc, tạo điều kiện cho ông được trò chuyện với con trai. Ông xác định sức khỏe và trí tuệ của cháu phát triển tốt. Nếu vợ chồng ly hôn, ông có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu L, không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con. Ông hiện đang làm nghề trồng hoa, thu nhập khoảng 12.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng mỗi tháng nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh.
Ông không đồng ý giao con cho bà T vì cho rằng với công việc hiện tại bà T không có thời gian chăm sóc con.
Về tài sản chung và nợ chung: Ông Đ xác định không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại Biên bản hòa giải ngày 10/6/2022, bà T và ông Đ thống nhất thuận tình ly hôn nhưng không thỏa thuận được về vấn đề con chung.
Tại phiên tòa, bà T vẫn giữ nguyên quan điểm xin ly hôn với ông Đ vì cả hai có nhiều mâu thuẫn, cuộc sống hôn nhân không hạnh phúc và mong muốn được trực tiếp nuôi dưỡng cháu L, không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con. Ông Đ đồng ý yêu cầu ly hôn của bà T và đề nghị được nuôi con, không yêu cầu bà T cấp dưỡng nuôi con.
Đaị diêṇ Viêṇ kiêm sat nhân dân thành phố Nha Trang, tinh Khanh Hoa phat biêu ý kiến:
Về tố tụng: Việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng được thực hiện theo đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.
Về nôi dung vu an: Đề nghị Hội đồng xét xử công nhận việc thuận tình ly hôn giữa bà Bùi Ngọc T và ông Nguyễn Quốc Đ. Về con chung: giao con chung cháu Nguyễn Đức Tùng L, sinh ngày 10/10/2018 cho bà T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Bà T không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con nên không xem xét. Về tài sản chung và nợ chung: Cả hai xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét. Về án phí: Bà T phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cưu cac tai liêu, chưng cư co trong hồ sơ vu an đươc thâm tra công khai tai phiên toa va căn cư vao kết qua tranh tung tai phiên toa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:
[1] Về thẩm quyền và thủ tục tố tụng: Nguyên đơn bà Bùi Ngọc T có đơn xin ly hôn với ông Nguyễn Quốc Đ, trú tại: Thôn Phú Bình, xã Vĩnh T1, thành phố N, tỉnh Khánh H. Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố N, tỉnh Khánh H.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Bà Bùi Ngọc T và ông Nguyễn Quốc Đ kết hôn trên cơ sở tự nguyện, được Ủy ban nhân dân xã Vĩnh T1, thành phố N, tỉnh Khánh H cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 108 ngày 19/12/2018 nên đây là quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định pháp luật.
Cả hai cùng xác định vợ chồng chung sống không hạnh phúc, phát sinh mâu thuẫn về nhiều mặt do bất đồng quan điểm, tính cách, nhiều lần xảy ra cãi vã, xô xát. Theo Biên bản xác minh tại địa phương, địa phương không nắm thông tin về tình trạng hôn nhân giữa ông Đ và bà Tố. Xét thấy, tình trạng hôn nhân của bà T và ông Đ đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không Đ được; cả hai đều thuận tình ly hôn nên cần ghi nhận việc thuận tình ly hôn giữa bà Bùi Ngọc T và ông Nguyễn Quốc Đ.
[3] Về con chung: Bà T và ông Đ có một con chung là cháu Nguyễn Đức Tùng L, sinh ngày 10/10/2018, sức khỏe và trí tuệ của cháu bình thường. Cả bà T và ông Đ đều có nguyện vọng được trực tiếp nuôi con chung và không yêu cầu người còn lại cấp dưỡng nuôi con. Xét nguyện vọng được trực tiếp nuôi con của hai đều chính đáng, thể hiện tình cảm và trách nhiệm của cha mẹ đối với con. Tuy nhiên, việc giao con cho ai nuôi phải vì lợi ích về mọi mặt của con. Xét điều kiện nuôi con, bà T và ông Đ đều đang có chỗ ở ổn định; bà T hiện đang làm kỹ thuật viên tại cơ sở dạy nghề về spa với thu nhập ổn định hàng tháng trung bình từ 6.000.000 đồng đến 6.200.000 đồng và đã cung cấp các tài liệu, chứng cứ chứng minh. Ông Đ khai đang làm nghề trồng hoa, với thu nhập trung bình hàng tháng từ 12.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng nhưng không cung cấp được chứng cứ chứng minh về mức thu nhập. Ông Đ cho rằng bà T không có thời gian chăm sóc con là không đủ thuyết phục vì các bên đều xác định cháu L hiện đang có sức khỏe và trí tuệ bình thường. Hội đồng xét xử xét thấy cháu L còn nhỏ, cần sự gần gũi và chăm sóc của người mẹ hơn. Bên cạnh đó, từ khi ra đời đến nay cháu vẫn luôn sống cùng mẹ. Vì vậy việc giao cháu L cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với lợi ích về mọi mặt của cháu. Về việc cấp dưỡng nuôi con chung, bà T không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xét. Sau khi ly hôn, Ông Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con, không ai được cản trở. Quá trình nuôi dưỡng con chung, bà T và ông Đ đều có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như về cấp dưỡng nuôi con chung.
[4] Về tài sản chung và nợ chung: Bà Bùi Ngọc T và ông Nguyễn Quốc Đ xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.
[5] Về án phí: Bà Bùi Ngọc T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào các Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83, 84 và 116 của Luật Hôn nhân và gia đình;
- Căn cư vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015;
- Căn cư Nghi ̣quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngay 30 thang 12 năm 2016 cua Uy ban Thương vu Quốc hôi về mưc thu, miễn, giam, thu, nôp, quan ly và sư dung an phi va lê phi Toa an;
Tuyên xư:
1. Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa bà Bùi Ngọc T với ông Nguyễn Quốc Đ.
2. Về con chung: Chấp nhân yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, giao con chung là Nguyễn Đức Tùng L, sinh ngày 10/10/2018 cho bà Bùi Ngọc T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi tròn 18 tuổi. Bà T không yêu cầu ông Nguyễn Quốc Đ cấp dưỡng nuôi con.
Ông Nguyễn Quốc Đ có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở. Quá trình nuôi dưỡng con chung, bà T và ông Đ đều có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết việc thay đổi người trực tiếp nuôi con cũng như về cấp dưỡng nuôi con chung.
3. Về tài sản chung và nợ chung: Bà Bùi Ngọc T và ông Nguyễn Quốc Đ xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xét.
4. Về án phí: Bà Bùi Ngọc T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dan sự sơ thẩm về ly hôn, nhưng được trừ vào 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2021/0001283 ngày 11/3/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Bà T đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.
Quy định: Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
5. Về quyền kháng cáo: Bà Bùi Ngọc T và ông Nguyễn Quốc Đ có quyền kháng cáo bản án yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xét xử phúc thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (ngày 15/8/2022).
Bản án về ly hôn số 103/2022/HNGĐ-ST
Số hiệu: | 103/2022/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Nha Trang - Khánh Hoà |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 15/08/2022 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về