Bản án về ly hôn số 1009/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 1009/2021/HNGĐ-ST NGÀY 27/04/2021 VỀ LY HÔN

Ngày 27 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý: 1098/2020/TLST-HNGĐ ngày 02 tháng 12 năm 2020 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 1142/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 29 tháng 3 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phan Thị Kim T, sinh năm: 1982 Địa chỉ: Đường A, tổ B, khu phố C, phường T, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Nghĩa L, sinh năm: 1976 Địa chỉ: Đường A, tổ B, khu phố C, phường T, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và lời khai tại Tòa án, nguyên đơn Bà Phan Thị Kim T trình bày: Bà T và Ông L tự nguyện đăng ký kết hôn với nhau và được Ủy ban nhân dân phường T, Quận D (nay là thành phố T), Thành phố H cấp giấy chứng nhận kết hôn Sau khi kết hôn vợ chồng Bà T thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, do Ông L sống không có trách nhiệm với gia đình, công việc làm ăn thì thua lỗ, từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau nhiều hơn, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Từ tháng 12/2017, Ông L bỏ mẹ con Bà T đi đâu không rõ cho đến nay. Vào năm 2020, Bà T có làm thủ tục yêu cầu tuyên bố Ông Nguyễn Nghĩa L mất tích và Tòa án nhân dân Quận D, Thành phố H đã ra Quyết định giải quyết việc dân sự tuyên bố Ông Nguyễn Nghĩa L mất tích.

Nay Bà T xác định không còn tình cảm với Ông L, thời gian Ông L bỏ Bà T đi đã lâu nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với Ông L.

Về con chung: Bà T và Ông L có 01 người con chung tên Nguyễn Bá Phước, sinh ngày 04/4/2014. Bà T yêu cầu trực tiếp nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu Ông L cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà T xác định không có.

Về nợ chung: Bà T xác định không có.

- Bị đơn Ông Nguyễn Nghĩa L đã mất tích theo Quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án nhân dân Quận D, Thành phố H.

Tại phiên tòa:

Nguyên đơn Bà Phan Thị Kim T vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện.

Bị đơn Ông Nguyễn Nghĩa L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không rõ lý do.

Phát biểu của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử: Thẩm phán thực hiện đúng nhiệm vụ và quyền hạn theo quy định của pháp luật; Việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự; Xác định đúng người tham gia tố tụng; Hội đồng xét xử thực hiện đúng quyền hạn theo quy định của pháp luật; Tòa án ban hành quyết định đưa vụ án ra xét xử đúng thời hạn.

Về nội dung vụ án: Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân gia đình năm 2014, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thủ Đức đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Cụ thể, về quan hệ hôn nhân: Cho Bà Phan Thị Kim T được ly hôn với Ông Nguyễn Nghĩa L; Về con chung: Giao Bà T trực tiếp nuôi dưỡng người con chung tên Nguyễn Bá Phước, sinh 2014, ghi nhận Bà T không yêu cầu Ông L cấp dưỡng nuôi con; Về tài sản chung: không có; Nợ chung: không có. Về án phí hôn nhân và gia đình: Bà T phải chịu theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ lời khai của đương sự trong hồ sơ, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Bà Phan Thị Kim T nộp đơn khởi kiện yêu cầu ly hôn với Ông Nguyễn Nghĩa L, Ông L có nơi cư trú cuối cùng tại Đường A, tổ B, khu phố C, phường T, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là vụ án tranh chấp về ly hôn thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Quận D (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn Ông Nguyễn Nghĩa L đã mất tích theo Quyết định giải quyết việc dân sự của Tòa án nhân dân Quận D, Thành phố H và đã được Tòa án triệu tập hợp lệ tham gia phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Ông L.

[3] Xét yêu cầu của đương sự:

Bà T và Ông L tự nguyện đăng ký kết hôn với nhau và được Ủy ban nhân dân phường T, Quận D (nay là thành phố T), Thành phố H cấp giấy chứng nhận kết hôn nên quan hệ hôn nhân giữa Bà T và Ông L là hợp pháp.

Theo lời khai của Bà T thì sau khi kết hôn vợ chồng Bà T thường xuyên phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong cuộc sống, do Ông L sống không có trách nhiệm với gia đình, công việc làm ăn thì thua lỗ, từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau nhiều hơn, cuộc sống chung không có hạnh phúc. Từ tháng 12/2017, Ông L bỏ mẹ con Bà T đi đâu không rõ cho đến nay. Vào năm 2020, Bà T có làm thủ tục yêu cầu tuyên bố Ông Nguyễn Nghĩa L mất tích và Tòa án nhân dân Quận D, Thành phố H đã ra Quyết định giải quyết việc dân sự tuyên bố Ông Nguyễn Nghĩa L mất tích.

Nay Bà T xác định không còn tình cảm với Ông L, thời gian Ông L bỏ Bà T đi đã lâu nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với Ông L.

Căn cứ khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của Bà T.

Về con chung: Căn cứ theo Giấy khai sinh do Ủy ban nhân dân phường T, Quận D (nay là thành phố Thủ Đức), Thành phố Hồ Chí Minh thì Bà T và Ông L có 01 người con chung tên Nguyễn Bá Phước, sinh 2014.

Xét, Bà T yêu cầu được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con chung tên Nguyễn Bá Phước, sinh 2014. Đồng thời cháu Phước hiện đang chung sống cùng Bà T và cũng có nguyện vọng được ở với Bà T.

Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn giao con chung tên Nguyễn Bá Phước, sinh 2014 cho Bà T trực tiếp nuôi dưỡng.

Bà T không yêu cầu Ông L cấp dưỡng nuôi con, đây là sự tự nguyện của đương sự nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

Về tài sản chung: Bà T xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

Về nợ chung: Bà T xác định không có nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn Bà Phan Thị Kim T phải chịu án phí về hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 228; Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự;

Căn cứ vào các Điều 51, 56, 57, 81, 82, 83 và Điều 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ vào Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phan Thị Kim T được ly hôn với Ông Nguyễn Nghĩa L.

- Về con chung: Bà Phan Thị Kim T trực tiếp nuôi dưỡng con chung Nguyễn Bá Phước, sinh 2014. Ghi nhận Bà T không yêu cầu Ông L cấp dưỡng nuôi con.

Không bên nào được ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc và giáo dục con chung.

Vì quyền lợi mọi mặt của người con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con, hoặc hạn chế quyền thăm nom con của người không trực tiếp nuôi con.

- Về tài sản chung: Không có.

- Nợ chung: không có.

2. Về án phí: Bà Phan Thị Kim T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng mà Bà T đã nộp tại Biên lai thu tiền tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án của Chi cục thi hành án dân sự Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh. Bà T đã nộp đủ án phí.

3. Giấy chứng nhận kết hôn do Ủy ban nhân dân phường T, Quận D (nay là thành phố T), Thành phố H cấp cho Ông Nguyễn Nghĩa L và bà Phan Thị Kim Thành không còn giá trị pháp lý.

4. Các đương sự được quyền kháng cáo bản án này trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp vắng mặt thời hạn kháng cáo được tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

137
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 1009/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:1009/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân TP. Thủ Đức - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 27/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;