Bản án về ly hôn số 08/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN SƠN TRÀ, THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 12/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 12/4/2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 11/2022/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 01 năm 2022 về tranh chấp: “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 11/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17/3/2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số 18/2022/QĐST- HNGĐ ngày 01/4/2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Lê Trần Thị Phương T- Sinh năm: 1998 – Trú tại: K37 H05/18 NPV, tổ 33 phường T, quận Sơn Trà, Tp Đà Nẵng; Có mặt.

- Bị đơn: Ông Nguyễn Viết D- Sinh năm: 1985- Trú tại: K62 H35/35 NPV, tổ 68 phường T, quận Sơn Trà, Tp Đà Nẵng; Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, tại bản tự khai và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn bà Lê Trần Thị Phương T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Trần Thị Phương T và ông Nguyễn Viết D xây dựng gia đình với nhau vào năm 2021. Hôn nhân tự nguyện, có thời gian tìm hiểu nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND phường T, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng. Sau khi kết hôn, vợ chồng ông, bà chung sống tại địa chỉ: K62 H35/35 NPV, tổ 68, phường T, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng. Trong quá trình chung sống giữa vợ chồng ông bà nảy nhiều sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, khác biệt nhau về tính cách; ngoài ra bà T cho rằng sau khi ông bà kết hôn được một thời gian ngắn thì ba, mẹ chồng của bà lần lượt qua đời nên ông D luôn đổ lỗi cho bà, thường xuyên xúc phạm bà T làm cho cuộc sống hôn nhân ngày càng bế tắc. Ông bà đã sống ly thân từ tháng 8/2021 cho đến nay, không ai quan tâm gì đến ai. Nay xét thấy mục đích hôn nhân không đạt được, tình cảm của bà đối với ông Nguyễn Viết D không còn, do đó bà xin được ly hôn với ông Nguyễn Viết D.

- Về quan hệ con chung: Bà Lê Trần Thị Phương T xác định bà và ông Nguyễn Viết D có 01 con chung là: Nguyễn Lê Minh K, sinh ngày: 12/10/2021. Ly hôn, bà Lê Trần Thị Phương T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Yêu cầu ông Nguyễn Viết D cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng. Thời gian thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bắt đầu từ tháng 05/2022, vào ngày 10 hàng tháng.

- Về quan hệ tài sản chung: Bà Lê Trần Thị Phương T xác định không có.

- Về nợ chung: Bà Lê Trần Thị Phương T xác định không có.

* Đối với bị đơn – ông Nguyễn Viết D: mặc dù đã được Tòa án đã tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cũng như Quyết định đưa vụ án ra xét xử, Thông báo về việc thay đổi thời gian mở lại phiên tòa nhưng ông Nguyễn Viết D đều vắng mặt và không có ý kiến phản hồi nên không ghi nhận được ý kiến của ông về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Theo đó, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và nguyên đơn đã tuân thủ đúng pháp luật, riêng bị đơn ông Nguyễn Viết D không chấp hành triệu tập của Tòa án, chưa thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình theo quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án, đại diện Viện kiểm sát nhân dân quận Sơn Trà đề nghị Hội đồng xét xử:

- Về quan hệ hôn nhân: Áp dụng điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Trần Thị Phương T đối với ông Nguyễn Viết D.

- Về quan hệ con chung: Áp dụng điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình giao con chung là: Nguyễn Lê Minh K, sinh ngày: 12/10/2021 cho bà Lê Trần Thị Phương T trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Buộc ông Nguyễn Viết D cấp dưỡng nuôi các con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Thời gian thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bắt đầu từ tháng 05/2022, vào ngày 10 hàng tháng.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lê Trần Thị Phương T xác định vợ chồng không có tài sản chung và nợ chung. Tại phiên tòa ông Nguyễn Viết D vắng mặt nên để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự đề nghị HĐXX không xem xét giải quyết về tài sản chung và nợ chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà, HĐXX nhận định:

[1] Về thủ tục: Đơn khởi kiện của bà Lê Trần Thị Phương T nộp tại Tòa án là đúng thủ tục và thẩm quyền được quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Ông Nguyễn Viết D là bị đơn trong vụ án, đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa lần thứ hai nhưng ông Nguyễn Viết D vẫn vắng mặt. Hội đồng xét xử căn cứ điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự để xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về nội dung: Bà Lê Trần Thị Phương T và ông Nguyễn Viết D đăng ký kết hôn vào năm 2021 tại UBND phường T, quận S, TP. Đà Nẵng theo giấy chứng nhận kết hôn số: 72 cấp ngày 01/4/2021. Hôn nhân tự nguyện, có thời gian tìm hiểu nhau. Đây là cuộc hôn nhân hợp pháp nên được pháp luật công nhận và bảo vệ.

Sau khi kết hôn, vợ chồng ông, bà chung sống tại địa chỉ: K62 H35/35 NPV, tổ 68, phường T, quận Sơn Trà, TP. Đà Nẵng. Trong quá trình chung sống giữa vợ chồng ông bà phát sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm sống, khác biệt nhau về tính cách; ngoài ra bà T cho rằng sau khi ông bà kết hôn được một thời gian ngắn thì ba, mẹ chồng của bà lần lượt qua đời nên ông D luôn đổ lỗi cho bà, thường xuyên xúc phạm bà T làm cho cuộc sống hôn nhân ngày càng bế tắc. Ông bà đã sống ly thân từ tháng 8/2021 cho đến nay, không ai quan tâm gì đến ai. Nay bà Lê Trần Thị Phương T xác định không còn yêu thương ông Nguyễn Viết D nữa, bà xin được ly hôn.

Xét yêu cầu xin ly hôn của bà Lê Trần Thị Phương T đối với ông Nguyễn Viết D thì thấy: Hạnh phúc gia đình chỉ thật sự có được dựa trên sự yêu thương, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, thế nhưng giữa bà Lê Trần Thị Phương T và ông Nguyễn Viết D lại không làm được điều này. Khi mâu thuẫn xảy ra hai bên không tìm được cách giải quyết đề hàn gắn và xây dựng gia đình. Qua xác minh được biết giữa bà T và ông D có mâu thuẫn dẫn đến tháng 08/2021 bà T không còn chung sống với ông D tại địa phương. Về phía ông Nguyễn Viết D, Tòa án đã tạo điều kiện nhiều lần để vợ chồng hòa giải mâu thuẫn, trở về đoàn tụ chung sống với nhau nhưng ông Nguyễn Viết D đều vắng mặt tại các phiên hòa giải. Việc này cho thấy ông Nguyễn Viết D không tôn trọng Tòa án và thờ ơ với việc hàn gắn hạnh phúc gia đình, không có thiện chí níu kéo mối quan hệ hôn nhân của mình. Xét thấy, mâu thuẫn của bà Lê Trần Thị Phương T và ông Nguyễn Viết D đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên HĐXX chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Trần Thị Phương T đối với ông Nguyễn Viết D là phù hợp quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Bà Lê Trần Thị Phương T xác định bà và ông Nguyễn Viết D có 01 con chung là: Nguyễn Lê Minh K, sinh ngày: 12/10/2021. Ly hôn, bà Lê Trần Thị Phương T có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi. Yêu cầu ông Nguyễn Viết D cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng. Thời gian thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bắt đầu từ tháng 05/2022, vào ngày 10 hàng tháng.

Xét yêu cầu của bà T về việc xin được nuôi con chung thì thấy: Việc giao con cho ai trông nom, nuôi dưỡng đều phải dựa vào quyền lợi mọi mặt của con, đảm bảo được sự phát triển toàn diện của con cả về thể chất lẫn tinh thần. Hiện tại, con chung mới 06 tháng tuổi còn quá nhỏ và đang được bà T nuôi dưỡng, chăm sóc nên cần giao con chung cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với tình hình thực tế, nhằm ổn định cuộc sống của con và phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và gia đình.

Đối với việc cấp dưỡng nuôi con, đây là nghĩa vụ, trách nhiệm của bên không trực tiếp nuôi con sau ly hôn, tuy nhiên mức cấp dưỡng nuôi con còn phải căn cứ vào mức thu nhập, khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu thiết yếu của con chung. Tại phiên tòa hôm nay, bà T yêu cầu ông D cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 2.000.000 đồng. HĐXX xét thấy phù hợp với tình hình thực tế và phù hợp với điều 110, 116, 117 của Luật Hôn nhân và gia đình nghĩ nên chấp nhận.

[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Lê Trần Thị Phương T xác định vợ chồng bà không có tài sản chung và nợ chung. Ông Nguyễn Viết D vắng mặt nên không ghi nhận được kiến của ông về vấn đề này. Do vậy, để đảm bảo quyền lợi cho các bên đương sự, HĐXX không xem xét giải quyết. Nếu các đương sự có tranh chấp về tài sản chung và nợ chung thì sẽ giải quyết bằng một vụ án khác.

[5] Án phí HNGĐ sơ thẩm: 300.000 đồng bà Lê Trần Thị Phương T phải chịu theo quy định của pháp luật.

[6] Án phí cấp dưỡng nuôi con: 300.000 đồng ông Nguyễn Viết D phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

- Căn cứ: Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự;

- Căn cứ Điều 51, 56, 81, 82, 83, 110, 116, 117 Luật hôn nhân và gia đình;

- Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc "Ly hôn " của bà Lê Trần Thị Phương T đối với ông Nguyễn Viết D.

Xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho bà Lê Trần Thị Phương T được ly hôn ông Nguyễn Viết D.

Do chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Lê Trần Thị Phương T đối với ông Nguyễn Viết D nên giấy chứng nhận kết hôn số 72 do UBND phường T, quận S, TP. Đà Nẵng cấp cho bà Lê Trần Thị Phương T và ông Nguyễn Viết D ngày 01/4/2021 không còn giá trị pháp lý.

2. Về quan hệ con chung: Giao con chung là: Nguyễn Lê Minh K, sinh ngày: 12/10/2021 cho bà Lê Trần Thị Phương T được trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Buộc ông Nguyễn Viết D cấp dưỡng nuôi con chung mỗi tháng 2.000.000 đồng (Hai triệu đồng) cho đến khi con chung Nguyễn Lê Minh K đủ 18 tuổi. Thời gian thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bắt đầu từ tháng 05/2022, vào ngày 10 hàng tháng.

Bên không trực tiếp nuôi con vẫn được thực hiện mọi quyền và nghĩa vụ đối với con chung, không ai được cản trở. Khi cần thiết vì lợi ích của con chung, các bên đều có quyền yêu cầu giải quyết về việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung.

Kể từ quyết định có hiệu lực pháp luật (đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án (đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án) cho đến khi thi hành án xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 357 Bộ luật dân sự.

3. Án phí HNGĐ-ST: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) bà Lê Trần Thị Phương T phải chịu nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) bà Lê Trần Thị Phương T đã nộp tại biên lai thu số 3144 ngày 24/01/2022 tại Chi cục Thi hành án dân sự quận Sơn Trà, thành phố Đà Nẵng. Bà Lê Trần Thị Phương T đã nộp đủ án phí.

4. Án phí cấp dưỡng nuôi con: 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) ông Nguyễn Viết D phải chịu.

Án xử công khai sơ thẩm, các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản sao án hợp lệ.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự. người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự, người phải thi hành dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

196
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 08/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Sơn Trà - Đà Nẵng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 12/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;