Bản án về ly hôn số 08/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH P

BẢN ÁN 08/2022/HNGĐ-ST NGÀY 18/03/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 18 tháng 3 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh P xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 495/2021/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 12 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 14/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 01 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Bùi Thị Thanh H, sinh năm 1999 Nơi ĐKHKTT: Tổ 8A, phố B, phường B, thành phố V, tỉnh P.

Bị đơn: Anh Nguyễn Quốc K, sinh năm 1996 Nơi ĐKHKTT: Tổ 8A, phố B, phường B, thành phố V, tỉnh P. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh P.

(Chị H có đơn xin xét xử vắng mặt, anh K vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn chị Bùi Thị Thanh H có đơn xin xét xử vắng mặt nhưng trong đơn khởi kiện và bản tự khai ngày 05/01/2022 chị trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Quốc K có đăng ký kết hôn ngày 10/4/2017 tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố V, tỉnh P. Sau khi kết hôn chị về chung sống với gia đình chồng tại tổ 8A, phố B, phường B, thành phố V, tỉnh P. Trong quá trình chung sống vợ chồng đã xảy ra nhiều mâu thuẫn không hòa hợp hàn gắn được. Đến khoảng tháng 7 năm 2021 anh K vi phạm pháp luật và đã bị xét xử về tội liên quan đến ma túy và lừa đảo chiếm đoạt tài sản tại Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên và Tòa án nhân dân thành phố V, hiện anh K đang bị tạm giam. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh K.

- Về con chung: Vợ chồng chị có 02 con chung là Nguyễn Duy T, sinh ngày 05/02/2017 và Nguyễn Lan P, sinh ngày 03/4/2018. Hiện nay, anh K đang bị tạm giam và chấp hành hình phạt tù giam nên chị đề nghị Tòa án giao 02 con chung cho chị trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc đến khi trưởng thành, chị không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn anh Nguyễn Quốc K hiện đang tạm giam tại Trại giam công an tỉnh P, anh K vắng mặt nhưng bản tự khai ngày 20/01/2022 anh trình bày:

Anh đã nhận được Thông báo thụ lý vụ án của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh P về việc chị Bùi Thị Thanh H xin ly hôn anh. Quan điểm của anh như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị H là vợ chồng và có đăng ký kết hôn vào ngày 10/4/2017 tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố V, tỉnh P. Anh không đồng ý ly hôn vì lý do anh đang bị thi hành án phạt tù của tội danh tàng trữ trái phép chất ma túy và lừa đảo chiếm đoạt tài sản với mức án 08 năm tù.

- Về con chung: Vợ chồng anh có 02 con chung là Nguyễn Duy T, sinh ngày 05/02/2017 và Nguyễn Lan P, sinh ngày 03/4/2018. Nếu phải ly hôn anh đề nghị Tòa án xem xét cho anh được ủy quyền cho bố mẹ đẻ anh là bà Nguyễn Thị Tuyết và ông Nguyễn Tiến Thắng chăm sóc, chu cấp cho 02 con anh, còn anh không đồng ý cho vợ anh nuôi dưỡng 02 cháu. Về cấp dưỡng nuôi con chung anh không yêu cầu chị H phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung, công sức đóng góp: Không có.

Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành hòa giải nhưng các đương sự đã không thống nhất được với nhau về nội dung giải quyết nên vụ án được đưa ra xét xử theo quy định của pháp luật.

Do vụ án Tòa án không phải tiến hành thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh P không tham gia phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được xem xét tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về tố tụng:

Quan hệ tranh chấp và thẩm quyền giải quyết được xác định: Đây là tranh chấp hôn nhân và gia đình về việc “Ly hôn” giữa nguyên đơn chị Bùi Thị Thanh H và bị đơn anh Nguyễn Quốc K. Anh K có hộ khẩu thường trú tại: tổ 8A, phố B, phường B, thành phố V, tỉnh P. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh P là đúng quy định pháp luật.

Bị đơn anh Nguyễn Quốc K hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh P nên vắng mặt. Chị H có đơn xin xét xử vắng mặt nên căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh K, chị H.

[2]. Về nội dung:

- Về quan hệ hôn nhân: Chị H, anh K là vợ chồng và có đăng ký kết hôn hợp pháp ngày 10/4/2017 tại Ủy ban nhân dân phường B, thành phố V, tỉnh P. Quá trình chung sống được một thời gian thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh K đã thực hiện hành vi phạm tội nên tại bản án hình sự số: 575/2021/HSST ngày 25/11/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt Nguyễn Quốc K 42 tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và bản án hình sự số: 03/2022/HSST ngày 12/01/2022 của Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh P xử phạt Nguyễn Quốc K 05 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Tổng hợp hình phạt của 02 bản án Nguyễn Quốc K phải chấp hành 08 năm 06 tháng tù. Hiện nay, anh K đang bị tạm giam tại Trại tạm giam - Công an tỉnh P giam đề chờ quyết định thi hành án phạt tù. Chị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên xin ly hôn anh K. Anh K không muốn ly hôn vì lý do anh đang bị thi hành án phạt tù với mức án trên 08 năm tù. Xét thấy, anh K đã thực hiện hành vi phạm tội, hiện nay anh đang phải chấp hành hình phạt của 02 bản án là 08 năm 06 tháng tù, điều đó thấy rằng bản thân anh K là một người đã có gia đình nhưng không tu chí làm ăn, không chăm lo cho hạnh phúc gia đình, không quan tâm chăm sóc vợ con mà lại liên tục thực hiện hành vi phạm tội, dẫn đến quan hệ hôn nhân giữa chị H và anh K dạn nứt không hàn gắn được, cuộc sống hôn nhân không có hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, việc chị H xin ly hôn là có căn cứ. Chấp nhận cho chị H được ly hôn anh K.

- Về con chung: Chị H, anh K có 02 con chung là Nguyễn Duy T, sinh ngày 05/02/2017 và Nguyễn Lan P, sinh ngày 03/4/2018. Nay ly hôn cần giao cho chị H trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục 02 con chung, vì hiện nay anh K đang phải chấp hành hình phạt tù nên không thể có điều kiện trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung được. Anh K muốn giao 02 con chung cho bố mẹ đẻ anh K nuôi dưỡng. Tuy nhiên, chị H là mẹ đẻ của cháu T và cháu P, chị là người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và có công ăn việc làm ổn định, hiện đang làm ở Công ty cổ phần may Pearl Việt Nam, có địa chỉ: Phường Dữu Lâu, thành phố V, tỉnh P. Do vậy không thể giao cho ông bà nội nuôi dưỡng các cháu mà buộc phải giao cho mẹ đẻ hai cháu trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi các cháu thành niên.

Về việc cấp dưỡng nuôi con: Chị H không yêu cầu anh K phải cấp dưỡng nuôi con chung, xét thấy đây là sự tự nguyện của chị H phù hợp với quy định pháp luật và không trái đạo đức xã hội nên cần chấp nhận.

Chị H cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở anh K trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

- Về tài sản chung; nợ chung; công sức đóng góp: Chị H, anh K đều xác định vợ chồng không có, không đề nghị Tòa án xem xét giải quyết.

[3]. Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

[4]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự đều có quyền kháng cáo.

[5]. Do vụ án Tòa án không phải tiến hành thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát nhân dân thành phố V, tỉnh P không tham gia phiên tòa theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Bộ luật tố tụng dân sự là đúng với quy định pháp luật.

Vì các lí lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

khoản 2 Điều 21; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39, Khoản 1 Điều 227; khoản 1 Điều 228, Điều 238; Điều 271; Điều 273; khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.

1. Xử: Cho chị Bùi Thị Thanh H được ly hôn anh Nguyễn Quốc K.

2. Về con chung: Giao 02 con chung là Nguyễn Duy T, sinh ngày 05/02/2017 và Nguyễn Lan P, sinh ngày 03/4/2018 cho chị Bùi Thị Thanh H được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi thành niên. Anh Nguyễn Quốc K không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Chị H cùng các thành viên trong gia đình không được cản trở anh K trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung.

3. Về tài sản chung; nợ chung; công sức đóng góp: Không có, không đề nghị Tòa án giải quyết 4. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Chị Bùi Thị Thanh H phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm. Xác nhận chị H đã nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) tạm ứng án phí (do anh Nguyễn Trí Linh nộp thay) theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2020/0009687 ngày 27/12/2021 của Chi cục thi hành án dân sự thành phố V, tỉnh P.

5. Chị H, anh K có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày bản án được niêm yết theo quy định pháp luật.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 08/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:08/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;