Bản án về ly hôn số 05/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VŨNG TÀU, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 05/2022/HNGĐ-ST NGÀY 13/01/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 13 tháng 01 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số 575/2021/TLST-HNGĐ ngày 11 tháng 6 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 101/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 10 tháng 12 năm 2021; Quyết định hoãn phiên tòa số 109/2021/QĐST-HNGĐ ngày 28 tháng 12 năm 2021, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Ngô Thị N, sinh năm 1991;

Hộ khẩu thường trú: Xã Phương H, huyện V, tỉnh T.

Địa chỉ hiện nay: Số 15/6 Nguyễn Tri M, phường D, thành phố S, tỉnh C (vắng mặt, có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt)

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Tấn A, sinh năm 1986;

Hộ khẩu thường trú: Xã Quảng E, huyện R, tỉnh C.

Địa chỉ hiện nay: Số 15/6 Nguyễn Tri H, phường D, thành phố S, tỉnh C. (vắng mặt lần 2 không có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 31/05/2021 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Ngô Thị N trình bày: Bà Ngô Thị N và ông Nguyễn Tấn A tự nguyện tìm hiểu nhau, kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện R, tỉnh C vào ngày 25/9/2008. Sau khi kết hôn, bà N và ông A sống với nhau hạnh phúc. Đến năm 2016 vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng quan điểm sống không có tiếng nói chung. Ông A không lo làm ăn mà chỉ lo chơi lô đề rồi gây nợ nần. Nhiều lần bà N khuyên bảo nhưng ông A không nghe.

Vợ chồng thường xuyên lời qua tiếng lại làm cho tình cảm cảm vợ chồng ngày càng rạn nứt. Hai vợ chồng đã cố gắng hàn gắn cuộc hôn nhân vì con nhưng không có kết quả. Mâu thuẫn kéo dài không giải quyết được. Tình cảm vợ chồng không còn, bà Phương cảm thấy sống không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà N yêu cầu được ly hôn với ông A.

Về con chung: Quá trình chung sống, bà N và ông A có hai con chung tên là Nguyễn Tiến W, sinh ngày 17-02-2009 và Nguyễn Ngọc Y, sinh ngày 22-02- 2012. Ngoài ra bà không có con nuôi. Bà N có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng cháu W và cháu Y và không yêu cầu ông A cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn ông Nguyễn Tấn A: Ông Nguyễn Tấn A đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, các thông báo công khai chứng cứ và hòa giải, Thông báo kết quả phiên họp kiểm tra công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa nhưng ông A không gửi văn bản trình bày ý kiến trước yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

* Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến:

Về tố tụng: Tòa án nhân dân thành phố S thụ lý vụ án là đúng thẩm quyền. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký phiên tòa đã tiến hành đầy đủ các thủ tục tố tụng đúng theo quy định của Bộ luật Tố Tụng dân sự. Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng quy định tại các Điều 70, 71, 227 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn chưa chấp hành đúng các quy định tại các Điều 70, 72, 227 và Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về nội dung: Căn cứ vào các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án nhận thấy: Mâu thuẫn giữa bà N và ông A đã trầm trọng, không thể hàn gắn làm cho mục đích của hôn nhân không đạt được nên đề nghị chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn; Xét nguyện vọng của hai con chung là Nguyễn Tiến W, sinh ngày 17-02-2009 và Nguyễn Ngọc Y, sinh ngày 22-02-2012 có nguyện vọng ở với mẹ. Do vậy đề nghị chấp nhận yêu cầu được nuôi dưỡng con chung của nguyên đơn.Tài sản chung và nợ chung nguyên đơn không yêu cầu giải quyết nên không xem xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, qua ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, Hội đồng xét xử nhận định.

[1] Về tố tụng: Bà Ngô Thị N có đơn khởi kiện ly hôn với ông Nguyễn Tấn A, ông A có địa chỉ cư trú tại thành phố S nên xác định đây là vụ án Hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố S theo quy định tại Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

Nguyên đơn bà Ngô Thị N có đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Bị đơn ông Nguyễn Tấn A đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn theo quy định tại các điều 227, 228 và Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Ngô Thị N và ông Nguyễn Tấn A tự nguyện tìm hiểu nhau, kết hôn và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã E, huyện R, tỉnh C vào ngày 25/9/2008 theo đúng quy định về đăng ký kết hôn tại Điều 8 và Điều 9 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Nguyên đơn bà N cho rằng do vợ chồng thường xuyên bất đồng quan điểm trong cuộc sống, mâu mẫu kéo dài không giải quyết được dẫn đến vợ chồng không còn tình cảm với nhau, không có sự quan tâm chia sẻ cùng nhau. Do không thể tiếp tục sống chung với nhau, tình cảm của bà dành cho ông A không còn nên yêu cầu được ly hôn với ông A.

Qua xác minh tại địa phương cho biết bà N và ông A có mâu thuẫn với nhau về vấn đề tài chính thể hiện bà N và ông A mâu thuẫn với nhau là có thật.

Xét thấy: Mục đích của hôn nhân là xây dựng gia đình hạnh phúc.Vợ chồng phải quan tâm, yêu thương, tôn trọng, chăm sóc, giúp đỡ cho nhau về mọi mặt. Về phía bị đơn ông A đã được triệu tập nhiều lần đến làm việc nhưng ông A không đến và cũng không có ý kiến phản hồi đối với yêu cầu của bà N, chứng tỏ ông A không có ý muốn hàn gắn gia đình. Xét tình trạng mâu thuẫn giữa bà N và ông A đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do vậy, việc bà N yêu cầu được ly hôn với ông A là có căn cứ, phù hợp với quy định tại Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

[2.2] Về con chung: Quá trình chung sống, bà N và ông A có hai con chung là Nguyễn Tiến W, sinh ngày 17-02-2009 và Nguyễn Ngọc Y, sinh ngày 22-02-2012. Ngoài ra bà không có con nuôi. Bà N có nguyện vọng trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu ông A cấp dưỡng nuôi con.

Xét về điều kiện thì bà N có điều kiện kinh tế, đủ khả năng để nuôi dạy con chung. Từ lúc nhỏ cho đến nay hai cháu được mẹ lo việc sinh hoạt, học tập và phát triển về thể chất, tinh thần, trí tuệ, đạo đức. Theo nguyện vọng của cháu W và cháu Y của các con muốn được ở với mẹ phù hợp với quy định tại Khoản 2 Điều 81 của Luật Hôn nhân và Gia đình. Do vậy yêu cầu được nuôi con chung của bà Ngô Thị N là có cơ sở chấp nhận.

Về cấp dưỡng nuôi con: Bà N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[2.3] Tài sản chung và nợ chung: Bà N không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

[3] Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa sơ thẩm là có căn cứ. [4] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà N phải chịu theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Khoản 1 Điều 203, Khoản 1 Điều 227, 228, 238, 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các điều 51, 56, 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014;

Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Ngô Thị Phương đối với bị đơn ông Nguyễn Tấn Hoàng về việc ly hôn.

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Ngô Thị N được ly hôn với ông Nguyễn Tấn A.

2. Về con chung: Có hai con chung tên là Nguyễn Tiến W, sinh ngày 17- 02-2009 và Nguyễn Ngọc Y, sinh ngày 22-02-2012. Ngoài ra bà N không có con nuôi. Giao cháu Nguyễn Tiến W và cháu Nguyễn Ngọc Y cho bà Ngô Thị N trực tiếp nuôi dưỡng. Ông Nguyễn Tấn A không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Nguyễn Tấn A có quyền thăm và chăm sóc các con chung không ai được cản trở. Trên cơ sở lợi ích của con, trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức được quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về án phí cấp dưỡng nuôi con: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét 4. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét.

5. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Ngô Thị N phải nộp số tiền 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình, được trừ hết vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số 0001030 ngày 11-06 2021 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố S, tỉnh C. Bà Ngô Thị N đã nộp xong án phí hôn nhân.

6. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án, riêng đương sự vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu xét xử lại theo trình tự phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7, 7a, 7b và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

106
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 05/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:05/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 13/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;