Bản án về ly hôn số 04/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN DIÊN KHÁNH, TỈNH KHÁNH HÒA

BẢN ÁN 04/2022/HNGĐ-ST NGÀY 01/04/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 01 tháng 4 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 55/2021/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 3 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 03/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 02 năm 2022; Quyết định hoãn phiên tòa số: 03/2022/QĐST-HNGĐ ngày 04 tháng 3 năm 2022 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Thùy L Sinh năm: 198x Địa chỉ: Thôn P, xã D, huyện D.K, tỉnh Khánh Hòa; có mặt.

- Bị đơn: Ông Võ Văn D Sinh năm: 198x Địa chỉ: Thôn P, xã D, huyện D.K, tỉnh Khánh Hòa; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Theo đơn khởi kiện đề ngày 21/01/2021, các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thùy L trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Bà (Nguyễn Thị Thùy L) và ông Võ Văn D tự nguyện chung sống với nhau và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân xã D ngày 17/9/2015. Sau khi kết hôn vợ chồng bà về sinh sống cùng nhà cha mẹ của ông D tại thôn P, xã D, huyện Diên Khánh. Thời gian đầu, vợ chồng sống hạnh phúc; nhưng sau đó phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do ông D không lo làm ăn, không có trách nhiệm với gia đình; hay ăn nhậu và có lời lẽ xúc phạm, hành vi bạo lực với bà; khiến bà luôn trong trạng thái căng thẳng. Mâu thuẫn của vợ chồng bà thì cha mẹ hai bên đều biết và có khuyên can, hòa giải nhưng không được. Do mâu thuẫn vợ chồng thường xuyên xảy ra và ngày càng trầm trọng nên từ cuối năm 2018, bà hay về nhà mẹ đẻ tại thôn P1, xã D sinh sống; đến giữa năm 2021 thì bà cắt khẩu khỏi hộ gia đình ông D; kể từ đó, mỗi người tự lo cuộc sống riêng của mình, không còn quan tâm đến nhau. Nay bà xác định không còn tình cảm với ông D, không thể tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân nên kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông D.

Về con chung: Vợ chồng bà không có con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung, nợ chung: Vợ chồng bà không có tài sản chung, không có nợ chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Quá trình giải quyết vụ án, bị đơn ông Võ Văn D không đến Tòa án làm việc, không có lời khai.

- Ý kiến của Viện kiểm sát nhân dân huyện Diên Khánh:

Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng, đầy đủ các quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Nguyên đơn đã thực hiện quyền, nghĩa vụ của mình theo quy định pháp luật; bị đơn không có lời khai, không đến Tòa án làm việc.

Về nội dung: Sau khi xem xét đầy đủ, toàn diện ý kiến của đương sự tại phiên tòa và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ vào các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Nguyễn Thị Thùy L đối với ông Võ Văn D. Bà L xác định vợ chồng bà không có con chung, không có tài sản chung, nợ chung nên không giải quyết. Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Về thủ tục tố tụng: Tòa án đã triệu tập hợp lệ bị đơn ông Võ Văn D tham gia phiên tòa nhưng ông D vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Căn cứ vào khoản 2 Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử vẫn tiến hành việc xét xử. [2]. Về quan hệ hôn nhân:

[2.1]. Ngày 17/9/2015, bà Nguyễn Thị Thùy L và ông Võ Văn D tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã D và được cấp giấy chứng nhận kết hôn số: 52/2015; đây là hôn nhân hợp pháp.

[2.2]. Bà L xác định cuộc sống vợ chồng không hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn; thực tế, vợ chồng bà đã không còn chung sống với nhau, mỗi người tự lo cuộc sống riêng của mình. Hiện tại, bà L không còn tình cảm với ông D; không thể tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân nên kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông D. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã thông báo và nhiều lần triệu tập ông D đến Tòa án để lấy lời khai về yêu cầu khởi kiện ly hôn của bà L cũng như tham gia phiên hòa giải để hàn gắn mâu thuẫn vợ chồng, nhưng ông D đều không đến, không có văn bản trình bày ý kiến và tại phiên tòa ông D cũng vắng mặt không lý do. Điều này thể hiện việc ông D có thái độ bỏ mặc, không quan tâm đến quan hệ hôn nhân của vợ chồng, không có mong muốn hàn gắn mâu thuẫn để vợ chồng đoàn tụ. Theo kết quả xác minh tại Ủy ban nhân dân xã D thì trước đây bà L và ông D có cư trú tại hộ ông Võ C (cha của ông D) thuộc thôn P, xã D, huyện Diên Khánh; nhưng ngày 28/6/2021, bà L đã cắt khẩu và chuyển đến cư trú tại thôn P1, xã D, huyện Diên Khánh. Như vậy, có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà L và ông D đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn.

[3]. Về con chung: Bà L xác định vợ chồng không có con chung nên không giải quyết.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Bà L xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không giải quyết. Do bị đơn ông D chưa có lời khai về vấn đề này nên nếu sau này đương sự có yêu cầu thì sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

[5]. Về án phí: Nguyên đơn bà L phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ Điều 27 của Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án,

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà Nguyễn Thị Thùy L được ly hôn ông Võ Văn D.

2. Về con chung: Bà Nguyễn Thị Thùy L xác định vợ chồng không có con chung nên không giải quyết.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị Thùy L xác định vợ chồng không có tài sản chung, không có nợ chung nên không giải quyết. Bị đơn ông Võ Văn D chưa có lời khai về vấn đề này nên nếu sau này đương sự có yêu cầu thì sẽ được giải quyết bằng một vụ án khác.

4. Về án phí sơ thẩm: Nguyên đơn bà Nguyễn Thị Thùy L phải nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, nhưng được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí mà bà Nguyễn Thị Thùy L đã nộp theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2019/0002114 ngày 05/3/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa; như vậy, bà Nguyễn Thị Thùy L đã nộp đủ tiền án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bà Nguyễn Thị Thùy L được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Ông Võ Văn D được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 04/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:04/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Diên Khánh - Khánh Hoà
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 01/04/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;