Bản án về ly hôn số 02/2022/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN, TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 02/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/01/2022 VỀ LY HÔN

Ngày 17 tháng 01 năm 2022, Tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án ly hôn thụ lý số 655/2021/TLST - HNGĐ, ngày 21 tháng 10 năm 2021 về việc “Ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 02/2022/QĐST - HNGĐ ngày 05 tháng 01 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Dương Thị N, sinh năm 1978

Bị đơn: Anh Hoàng Văn H, sinh năm 1975 Cùng nơi cư trú: Xóm L, xã T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (Các đương sự có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn xin ly hôn và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn là bà Dương Thị N trình bày:

Tôi và anh Hoàng Văn H tổ chức cưới hỏi theo nghi thức truyền thống vào năm 2013 trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã T, TP Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Sau khi kết hôn vợ chồng tôi sinh sống tại xóm L, xã T, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên. Thời gian đầu chúng tôi chung sống hạnh phúc nH đến năm 2017, vợ chồng chúng tôi phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh H hay uống rượu, vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi vã, mắng chửi nhau thậm chí xảy ra xô xát. Tôi thấy rằng mâu thuẫn gia đình đã ở mức trầm trọng, tôi không còn tình cảm với anh H. Vì vậy đề nghị Toà án giải quyết cho được ly hôn với anh H để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Tôi và anh H có 01 con chung là Hoàng Văn S, sinh ngày 20/01/2016. Khi ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Tôi không yêu cầu anh H cấp dưỡng nuôi con.

Tài sản chung: Tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết. Vợ chồng tôi không có nợ chung.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa bị đơn là anh Hoàng Văn H trình bày:

Tôi công nhận lời khai của chị N về thời gian kết hôn, và mâu thuẫn vợ chồng là đúng. Về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do chúng tôi bất đồng quan điểm sống, đặc biệt là vấn đề kinh tế gia đình. Khoảng 2- 3 năm gần đây, vợ chồng nhiều lần xảy ra cãi vã, xô xát đánh nhau. Tuy nhiên, tôi thấy mâu thuẫn vợ chồng chưa đến mức trầm trọng, tôi xác định vẫn còn tình cảm với chị N, nếu chị N kiên quyết ly hôn thì tôi cũng đồng ý.

Về con chung: Tôi và chị N có 01 con chung là Hoàng Văn S, sinh ngày 20/01/2016. Khi ly hôn tôi có nguyện vọng được nuôi dưỡng con chung cho đến khi con đủ 18 tuổi hoặc có sự thay đổi khác. Tôi không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng tôi có 01 căn nhà cấp 4 xây năm 2014, tôi bỏ tiền xây nhà là 200.000.000 đồng. Hai vợ chồng tôi tự thỏa thuận, không yêu cầu giải quyết trong vụ án này. Nợ chung không có nên tôi không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát phát biểu ý kiến: Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa và các đương sự đã thực hiện đúng các quy định của pháp luật tố tụng, không có vi phạm gì.

Về nội dung vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị N, cho chị N được ly hôn anh H; Về con chung: Giao con chung là Hoàng Văn S, sinh ngày 20/01/2016 cho chị N trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đề nghị Hội đồng xét xử đặt ra xem xét; Về án phí cần buộc chị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, qua thẩm tra công khai tại phiên toà, xem xét ý kiến của các đương sự và đại diện Viện kiểm sát Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Đây là vụ án tranh chấp về hôn nhân gia đình, bị đơn cư trú trên địa bàn thành phố Thái Nguyên nên Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên thụ lý giải quyết là đúng quy định tại các Điều 28, 35, 39 của Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

[2] Nội dung vụ án.

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Chị Dương Thị N và anh Hoàng Văn H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, việc đăng ký kết hôn đã được thực hiện tại UBND xã Thịnh Đức, thành phố Thái Nguyên là cơ quan có thẩm quyền theo đúng quy định của pháp luật nên là hôn nhân hợp pháp.

Anh H và chị N là người cùng địa phương. Trước khi kết hôn với chị N, anh H đã từng kết hôn (vợ chết) và có con riêng. Sau khi cưới anh H đưa chị N về sống tại nhà đất của gia đình vợ trước khoảng 1 năm sau được mẹ chị N cho mượn đất làm nhà. Vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được đến khoảng năm 2017 - 2018 thì bắt đầu nảy sinh nhiều mâu thuẫn, bất đồng. Nguyên nhân do bất đồng quan điểm trong kinh tế gia đình, anh H hay uống rượu nên vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, xô sát. Hiện vợ chồng đã ly thân từ tháng 8 năm 2021.

Hội đồng xét xử thấy rằng: Chị N và anh H kết hôn trên cơ sở tự nguyện, khi cả hai đều trưởng thành, hiểu rõ hoàn cảnh của nhau. Nhưng vợ chồng chỉ hạnh phúc được một vài năm đầu sau khi cưới, những năm gần đây xảy ra đã mâu thuẫn trầm trọng, hiện hai bên đã sống ly thân không còn quan tâm đến nhau. Tòa án đã hòa giải nhiều lần, tuy nhiên chị N kiên quyết ly hôn. Anh H tuy cho rằng mâu thuẫn vợ chồng không lớn, nhưng cũng không níu kéo, không có phương án thuyết phục hòa giải với chị N để vợ chồng đoàn tụ. Từ đó có cơ sở cho thấy hôn nhân giữa chị N và anh H không còn hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy cần áp dụng Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị N là phù hợp.

[2.2] Về con chung: Các đương sự đều xác định vợ chồng có một con chung là cháu Hoàng Văn S, sinh ngày 20/01/2016. Cả hai bên đều đề nghị được nuôi con. Xét thấy anh H là lao động tự do (đi xây, làm ruộng), chị N là công nhân, về điều kiện kinh tế, thu nhập của cả hai bên là tương đương. Tuy nhiên cháu S tuổi còn nhỏ (6 tuổi) cần sự chăm sóc nhiều hơn từ mẹ; đặc biệt cháu Sáng chuẩn bị vào lớp 1 đây là giai đoạn quan trọng, rất cần sự quan tâm chăm sóc, giáo dục để tạo nên tảng việc học tập những năm tiếp theo. Hơn nữa hiện nay anh H cũng không thuận lợi về chỗ ở. Do đó Hội đồng xét xử thấy rằng để đảm bảo tốt nhất về sức khỏe, học tập, ổn định về chỗ ở, cũng như về tâm lý nên giao cháu Sáng cho chị N trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành hoặc đến khi có sự thay đổi khác là phù hợp. Sau khi ly hôn, anh H có quyền và có nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Về nghĩa vụ đóng góp nuôi con chung: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết việc cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra xem xét.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết trong vụ án này nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét. Trường hợp sau khi ly hôn, chị N và anh H có tranh chấp có quyền yêu cầu Toà án giải quyết trong vụ án khác.

[2.4] Về án phí: Chị N phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm nộp vào ngân sách nhà nước.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 28, 147, 227 của Bộ luật tố tụng Dân sự; Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Dương Thị N, cho chị Dương Thị N được ly hôn anh Hoàng Văn H.

2. Về con chung: Giao con chung là Hoàng Văn S, sinh ngày 20/01/2016 cho chị N trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác. Sau khi ly hôn, anh Hoàng Văn H có quyền và có nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Về án phí: Chị Dương Thị N phải chịu 300.000 đồng án phí Ly hôn sơ thẩm nộp ngân sách nhà nước (được trừ 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai 000593 ngày 21/10/2021 tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên.

Báo cho cho các đương sự biết được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

146
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn số 02/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:02/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/01/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;