Bản án về ly hôn, nuôi con số 50/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỂU CẦN, TỈNH TRÀ VINH

BẢN ÁN 50/2022/HNGĐ-ST NGÀY 14/07/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 14 tháng 7 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số:188/2021/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 3 năm 2021,về“Tranh chấp ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2022 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 27/2022/QĐST - HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2022 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Sơn Thị Thanh Th, sinh năm 1992; (Có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt).

Địa chỉ: ấp Cầu Tr, xã Ph C, huyện TC, tỉnh Trà Vinh.

Bị đơn: Anh Thạch R, sinh năm 1990; (Vắng mặt) Địa chỉ: ấp Nh, xã TH, huyện TC, tỉnh Trà Vinh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26/02/2021 và đơn đề nghị giải quyết vắng mặt gửi đến Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần nguyên đơn chị Sơn Thị Thanh Th trình bày:

Vào năm 2014 chị có xác lập quan hệ hôn nhân với anh Thạch R và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Cần, huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh vào năm 2019. Quá trình chung sống vợ chồng chị có 01 người con chung tên Sơn Thanh Ph, sinh ngày 08/04/2015, hiện cháu Ph đang sống chung với chị.

Nguyên nhân mâu thuẫn: Chị Th khai lúc đầu sau khi cưới nhau vợ chồng chị lên Thành phố Hồ Chí Minh thuê nhà trọ đi làm thuê sinh sống nhưng anh R không lo làm ăn, chỉ biết ăn nhậu với bạn bè và về nhà còn kiếm chuyện chửi bới, đánh đập chị nhiều lần, vì thương chồng chị có khuyên nhủ và tha thứ cho anh R nhiều lần nhưng tánh nào tật ấy anh R không sửa đổi nên vợ chồng chị đã sống ly thân từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay. Nay chị yêu cầu được ly hôn với anh Thạch R.

Về con chung: Chị Th khai có 01 con chung tên Sơn Thanh Phc, sinh ngày 08/4/2015 và chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi, Chị Th không yêu cầu anh R phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung và nợ chung: Chị Th khai không có nên chị không yêu cầu Hội đồng xét xử xem xét giải quyết.

Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Sơn Thị Thanh Th đã cung cấp cho Tòa án các tài liệu, chứng cứ sau đây: 01 (một) căn cước công dân của chị Sơn Thị Thanh Th (Có đối chiếu đúng với bản gốc); 01 (một) sổ hộ khẩu gia đình do mẹ ruột Chị Th là bà Thạch Thị S làm chủ hộ, hộ khẩu mang số 3274; quyển số: 30 ngày 05/01/2018 của Công an huyện Tiểu Cần cấp (Có đối chiếu đúng với bản gốc); 01 (một) giấy chứng nhận kết hôn (bản chính) số: 62 ngày 12/8/2019 của Ủy ban nhân dân xã Phú Cần; 01 (một) giấy khai sinh của con tên Sơn Thanh Ph (bản sao).

Tại bản tự khai đề ngày 16/3/2021 bị đơn anh Thạch R trình bày: Anh R thống nhất theo lời trình bày của Chị Th về thời gian đăng ký kết hôn, về nguyên nhân mâu thuẩn, về con chung, về tài sản chung và nợ chung là đúng.

Giữa anh và chị Sơn Thị Thanh Th có thời gian tìm hiểu nhau, có tổ chức lễ cưới theo phong tục tập quán tại địa phương và có đăng ký kết hôn vào năm 2019 tại Ủy ban nhân dân xã Phú Cần. Trong quá trình sống chung anh chị có được 01 con chung Sơn Thanh Ph, sinh ngày 08/04/2015 hiện đang sống chung với Chị Th. Nay Chị Th yêu cầu ly hôn anh vẫn còn thương yêu Chị Th nên anh không đồng ý ly hôn theo yêu cầu của Chị Th. Về con chung tên Sơn Thanh Ph, sinh ngày 08/04/2015 anh đồng ý giao cho Chị Th tiếp tục nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổi và anh không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Về tài sản chung và nợ chung không có nên anh không yêu cầu Hội đồng xét xử giải quyết.

Con chung Sơn Thanh Ph có ý kiến trỉnh bày tại hồ sơ vụ án: Cha cháu tên Thạch R, mẹ cháu tên Sơn Thị Thanh Th, nay cha mẹ cháu ly hôn cháu nguyện vọng theo mẹ cháu và sống chung với mẹ cháu là bà Sơn Thị Thanh Th.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết:

Xét thấy đơn khởi kiện của nguyên đơn chị Sơn Thị Thanh Th xin ly hôn với anh Thạch R nên đây là vụ kiện “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con ” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Bị đơn anh Thạch R có nơi cư trú rõ ràng trên địa bàn huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiểu Cần theo quy định tại Điều 35 và Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[2]. Về thủ tục tố tụng:

Nguyên đơn chị Sơn Thị Thanh Th có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định pháp luật.

Bị đơn anh Thạch R đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa xét xử vụ án nhưng anh Thạch R vắng mặt không có lý do. Căn cứ vào Điều 227 của Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt anh Thạch R theo qui định của pháp luật.

[3]. Về quan hệ hôn nhân:

Chị Sơn Thị Thanh Th và anh Thạch R xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2014 và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Phú Cần theo đúng quy định của pháp luật nên hôn nhân giữa chị Sơn Thị Thanh Th và anh Thạch R là hợp pháp. Trong quá trình chung sống vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn dẫn đến anh chị sống ly thân từ tháng 01 năm 2021 cho đến nay. Tại hồ sơ vụ án, Chị Th xác định giữa chị và anh R không còn tình cảm thương yêu, quý trọng, quan tâm chăm sóc lẫn nhau, điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân giữa anh chị đã mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, nếu có duy trì thì mục đích hôn nhân cũng không đạt được. Căn cứ vào Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án chấp nhận cho chị Sơn Thị Thanh Th được ly hôn với anh Thạch R.

[4]. Đối với con chung:

Do Chị Th khai có 01 con chung tên Sơn Thanh Ph, sinh ngày 08/04/2015 hiện đang sống chung với Chị Th. Chị Th yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Sơn Thanh Ph cũng là phù hợp với nguyện vọng của cháu Ph muốn sống chung với chị. Bởi vì từ lúc ly thân đến nay cháu Ph luôn chung sống với Chị Th và Chị Th không yêu cầu anh R cấp dưỡng nuôi con chung. Hội đồng xét xử xét thấy nên giao cháu Ph cho Chị Th tiếp tục nuôi dưỡng cũng là phù hợp với nguyện vọng của cháu Ph muốn sống chung với Chị Th. Hội đồng xét xử có giải thích về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn nhưng Chị Th không yêu cầu anh R cấp dưỡng nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5]. Đối với tài sản chung và nợ chung: Chị Sơn Thị Thanh Th và anh Thạch R thống nhất khai không có và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6]. Về án phí: Nguyên đơn chị Sơn Thị Thanh Th phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, Điều 39, Điều 147, Điều 227, Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các điều 51, 56 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Sơn Thị Thanh Th, cho chị Sơn Thị Thanh Th được ly hôn với anh Thạch R.

2. Về con chung:

Giao con chung tên Sơn Thanh Ph, sinh ngày 08/04/2015 cho chị Sơn Thị Thanh Th tiếp tục nuôi dưỡng đến đủ 18 tuổ cũng là phù hợp theo nguyện vọng của cháu Ph muốn sống chung với Chị Th. Anh R không phải cấp dưỡng nuôi con chung do chị Thúy không yêu cầu.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được ngăn cản. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom con để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu người không trực tiếp nuôi con cùng các thành viên trong gia đình tôn trọng quyền được nuôi con của mình. Người trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.

3. Về tài sản chung và nợ chung:

Chị Sơn Thị Thanh Th và anh Thạch R thống nhất khai không có và không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

4. Về án phí:

Chị Sơn Thị Thanh Th phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0001936 ngày 02/3/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiểu Cần, như vậy Chị Th đã nộp đủ án phí hôn nhân sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn, bị đơn. Báo cho các đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai nơi cư trú của các đương sự để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự”. /. 

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con số 50/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:50/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiểu Cần - Trà Vinh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 14/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;