Bản án về ly hôn, nuôi con số 42/2019/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI BÌNH, TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 42/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/10/2019 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 22 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố T, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 117/2019/TLST-HNGĐ ngày 22 tháng 8 năm 2019 về ly hôn, giải quyết về nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 43/2019/QĐXX-HNGĐ ngày 03 tháng 10 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Trần Thị C, sinh năm 1985 Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn L, xã V , thành phố T, tỉnh T.

Bị đơn: Anh Trần Văn H, sinh năm 1980 Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú và nơi cư trú: Thôn L, xã V , thành phố T, tỉnh T.

(Chị C , anh H có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện xin ly hôn và trong quá trình giải quyết vụ án,nguyên đơn là chị Trần Thị C trình bày và có yêu cầu như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Chị và anh Trần Văn H kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V , thành phố T vào ngày 27/01/2003. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống cùng mẹ anh H . Quá trình chung sống, vợ chồng phát sinh nhiều mâu thuẫn dẫn đến cãi cọ, xô xát nhau, nguyên nhân là do anh H đa nghi nên thường có lời lẽ xúc phạm chị và gia đình chị những khi chị đi làm về muộn. Mỗi khi vợ chồng có mâu thuẫn, anh H lại nói chị giống mẹ chị vì mẹ chị một mình sinh ra chị khiến chị vô cùng tổn thương. Anh H luôn nghi ngờ chị có quan hệ bất chính với người này người kia, ngoài ra vợ chồng còn không thống nhất được vấn đề kinh tế. Năm 2015 chị đã làm đơn ly hôn gửi Tòa án nhưng được các ban ngành đoàn thể hòa giải, phần khác vì thương các con nên chị đã về đoàn tụ với anh H . Từ sau khi đoàn tụ, chị thấy quan hệ vợ chồng không được cải thiện. Nay chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị ly hôn với anh Trần Văn H.

Về con chung: Chị và anh H có 02 con chung là Trần Thị Thanh T sinh ngày 12/5/2004 và Trần H L sinh ngày 25/01/2012. Ly hôn chị có nguyện vọng nuôi con T , con L sẽ do bố nuôi, không ai pH cấp dưỡng cho con.

Về tài sản: Chị Trần Thị C không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Trần Văn H trình bày: Về điều kiện kết hôn và thời gian kết hôn, mâu thuẫn giữa anh và chị C như chị C trình bày là đúng. Tuy nhiên, về nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng thì không phải hoàn toàn như chị C trình bày mà còn có nguyên nhân từ phía chị C , chị C ăn nói không khéo léo, tình cảm lạnh nhạt với anh. Bản thân chị C từng bỏ nhà và hai con còn nhỏ dại cho anh một mình chăm sóc trong vài tháng sau khi chị rút đơn ở Tòa án về vào năm 2015. Nay chị C kiên quyết xin ly hôn, anh nghĩ vì tương lai của các con nên anh không muốn ly hôn mà muốn chị C quay về đoàn tụ cùng chăm sóc con.

Về con chung: Anh và chị C có 02 con chung là Trần Thị Thanh T sinh ngày 12/5/2004 và Trần H L sinh ngày 25/01/2012. Nếu phải ly hôn, anh có nguyện vọng nuôi con L , con T sẽ do chị C nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng cho con.

Về tài sản: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bà Trần Thị Đậu, mẹ đẻ anh H cho biết: Anh H và chị C kết hôn tự nguyện có đăng ký kết hôn vào 27/01/2003 tại Ủy ban nhân dân xã V . Qúa trình chung sống hai vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn cãi cọ nhau, nguyên nhân là do anh H nghi ngờ chị C có mối quan hệ khác bên ngoài, mặt khác chị C tính tình thẳng thắn, nói năng không được khéo léo. Từ ngày 02/8/2019 (âm lịch) chị C đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở cùng thôn để ở. An H chị C có hai con chung như anh chị đã trình bày là đúng. Anh H và chị C có tài sản là 01 nhà mái bằng, dạng nhà ống, nhà xây thô trên đất của bà từ cách đây khoảng 10 năm nhưng vẫn chưa hoàn thiện, chưa đưa vào sử dụng, kinh phí hết bao nhiêu bà không rõ, bà cũng không biết anh chị có nợ ai tiền và cho ai nợ tiền không. Nay chị C xin ly hôn anh H , đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định chung, về con: đề nghị Tòa án giao cháu L cho anh H nuôi dưỡng, giao cháu T cho mẹ nuôi dưỡng.

Xác minh tại thôn L, xã V , thành phố T, tỉnh T, thể hiện: Anh H và chị C có đăng ký hộ khẩu thường trú và cư trú tại thôn L, xã V , thành phố T. Quá trình vợ chồng chung sống có phát sinh mâu thuẫn cãi cọ nhau, nguyên nhân cụ thể như thế nào thì cơ sở thôn không nắm rõ, chỉ nghe chị C nói lại là do anh H ghen tuông, khi vợ chồng mâu thuẫn, anh H cũng gọi điện nhờ các cơ quan đoàn thể tại địa phương hòa giải để vợ chồng đoàn tụ, mặc dù được hướng dẫn nhưng anh H không làm đơn nên mâu thuẫn của anh chị chưa tiến hành hòa giải ở cơ sở. Anh H và chị C có hai con chung là cháu Trần Thị Thanh T sinh ngày 12/5/2004 và Trần H L sinh ngày 25/01/2012. Hiện tại anh H chị C không vay các đoàn thể ở địa phương còn có vay nợ cá nhân hay không thì thôn không nắm được. Nay chị C xin ly hôn, đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Tại phiên tòa đại diện VKSND thành phố T phát biểu: Từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị ánThẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân theo các quy định của pháp luật tố tụng dân sự, nguyên đơn, bị đơn, đã chấp hành đúng pháp luật tố tụng về quyền và nghĩa vụ của mình. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố T đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng: Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Trần Thị C được ly hôn anh Trần Văn H. Về con chung: áp dụng các Điều 58,81,82, 83,84 của Luật Hôn nhân và gia đình xử giao cho chị C , anh H mỗi người nuôi một con, không ai phải cấp dưỡng cho con. Về tài sản chung: không đặt ra giải quyết. Về án phí: áp dụng Điều 24, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Toà án, chị C phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về hôn nhân: Chị Trần Thị C và anh Trần Văn H kết hôn tự nguyện, khi kết hôn không vi phạm điều kiện kết hôn, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã V , thành phố T, tỉnh T vào ngày 27/01/2003 là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, vợ chồng sống hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn do không tin tưởng nhau ngoài ra còn do vấn đề kinh tế trong gia đình không thống nhất dẫn đến thường xuyên cãi vã, xúc phạm nhau. Hiện nay chị C đã bỏ về nhà mẹ đẻ ở cùng thôn để ở, chị C hiện đang sống ly thân với anh H .

[2] Chị C xin ly hôn, anh H không đồng ý mà muốn đoàn tụ, tuy nhiên anh H không có biện pháp cải thiện tình trạng hôn nhân hiện nay, trong quá trình giải quyết ly hôn vẫn mắng chửi chị C , hơn nữa anh chị vẫn sống ly thân mỗi người một nơi. Tòa án đã tiến hành hòa giải để hai bên quay về đoàn tụ nhưng không thành, chị C vẫn kiên quyết xin ly hôn và đề nghị giải quyết về nuôi con chung. Kết quả xác minh cũng thể hiện vợ chồng chị C anh H có mâu thuẫn và hiện nay chị C đã bỏ về nhà mẹ đẻ để ở. Như vậy, mâu thuẫn giữa vợ chồng chị C anh H là có thật và đã kéo dài từ lâu, hôn nhân của anh chị không hạnh phúc, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó cần áp dụng Điều 51, 56 Luật Hôn nhân và gia đình, xử cho chị Trần Thị C được ly hôn anh Trần Văn H.

[3] Về con chung: Chị Trần Thị C và anh Trần Văn H có 02 con chung là Trần Thị Thanh T sinh ngày 12/5/2004 và Trần H L sinh ngày 25/01/2012. Cả chị C và anh H đều có nguyện vọng mỗi người nuôi một con, cụ thể anh H nhận nuôi con L , chị C nhận nuôi con T . Nguyện vọng được nuôi con là nguyện vọng chính đáng của các bên, nguyện vọng này phù hợp với ý kiến của cháu L và cháu T vì vậy, để đảm bảo mọi mặt tốt nhất cho con chung cần giao cho chị C nuôi con Trần Thị Thanh T , anh H nuôi con Trần H L , không bên nào pH cấp dưỡng cho con.

[4] Về tài sản: Chị C và anh H không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra giải quyết.

[5] Về án phí: Chị Trần Thị C pH chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. [6] Các đương sự có quyền kháng cáo trong hạn luật định.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các Điều 147, 203, 235, 271, 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 24, 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Toà án.

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Trần Thị C được ly hôn anh Trần Văn H.

2. Về con chung: Xử giao con Trần Thị Thanh T sinh ngày 12/5/2004 cho chị Trần Thị C nuôi dưỡng, giao con Trần H L sinh ngày 25/01/2012 cho anh H nuôi dưỡng, không bên nào phải cấp dưỡng cho con.

Chị C , anh H có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được cản trở. Chị C , anh H có quyền thay đổi người nuôi con, yêu cầu cấp dưỡng cho con khi cần thiết.

3. Về tài sản:Không đặt ra giải quyết.

4. Về án phí: Chị Trần Thi C phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm. Chuyển số tiền 300.000 đồng tạm ứng án phí chị C đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố T, biên lai thu số 0009978 ngày 22 tháng 8 năm 2019 sang thi hành án phí.

5. Về quyền kháng cáo: Chị Trần Thị C và anh Trần Văn H có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án 22/10/2019.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người pH thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

105
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con số 42/2019/HNGĐ-ST

Số hiệu:42/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Bình - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;