Bản án về ly hôn, nuôi con số 338/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHƯƠNG MỸ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

BẢN ÁN 338/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/09/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 17 tháng 9 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và Gia đình về “Ly hôn, nuôi con” thụ lý số 291/2021/TLST–HNGĐ ngày 02/7/2021. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2021 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị H, sinh năm 1986

* Bị đơn: Anh Nguyễn Công H, sinh năm 1984 Đều có HKTT và cư trú: Đội 3, thôn T, xã TT, huyện C, Thành phố Hà Nội.

Tại phiên tòa: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Công H đều có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai, lời trình bày trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa nguyên đơn - Chị Nguyễn Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị và anh Nguyễn Công H kết hôn năm 2007 trên tinh thần tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 03/04/2007 tại Ủy ban nhân dân xã TT, huyện C. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống tại gia đình nhà anh H. Quá trình chung sống khoảng 01 năm đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc, hòa thuận. Sau đó giữa vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh H không quan tâm đến gia đình và vợ chồng thường xuyên mâu thuẫn dẫn đến xô xát nhau. Chị đã về nhà bố mẹ đẻ ở từ tháng 12/2019 và vợ chồng đã ly thân từ đó cho đến nay không ai quan tâm đến ai. Nay chị nhận thấy tình cảm không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh H để ổn định cuộc sống.

Về con chung: Chị và anh H có 02 con chung là cháu Nguyễn Công H, sinh ngày 28/02/2009 và cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 24/12/2011 hiện cả hai cháu đang ở cùng với anh H và gia đình anh H. Ly hôn, chị có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả 02 con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Chị hiện làm công nhân, thu nhập khoảng 7.000.000đ/tháng nên đủ điều kiện nuôi dưỡng con chung. Nếu không được nuôi cả hai con chung, chị có nguyện vọng nuôi cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 24/12/2011 vì cháu bị khuyết tật câm điếc bẩm sinh cần sự chăm sóc của mẹ.

Về tài sản chung, công nợ chung, công sức: Chị không yêu cầu giải quyết.

* Bị đơn - Anh Nguyễn Công H trình bày:

Về hôn nhân: Anh thừa nhận anh chị Nguyễn Thị H kết hôn năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TT, huyện C. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau tại nhà anh tại thôn T, xã TT, huyện C. Quá trình chung sống với nhau vợ chồng có mâu thuẫn, cãi vã nhau do bất đồng quan điểm sống, nguyên nhân mâu thuẫn là do chị H hay đi làm về muộn và trong lúc nóng giận anh có tát chị H nên chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ từ tháng 12/2019 cho đến nay. Trong thời gian ly thân, anh và gia đình nhiều lần gặp chị H để khuyên bảo chị H về đoàn tụ nhưng chị H không đồng ý. Nay chị H xin ly hôn, anh không đồng ý ly hôn, anh mong muốn vợ chồng đoàn tụ để cùng nhau nuôi dạy con chung. Trường hợp chị H cương quyết xin ly hôn anh đề nghị giải quyết theo pháp luật.

Về con chung: Anh thừa nhận anh và chị H có 02 con chung là cháu Nguyễn Công H, sinh ngày 28/02/2009 và cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 24/12/2011 hiện cả hai cháu đang ở cùng với anh và gia đình. Cháu H đang học lớp 6 trường Trung học cơ sở TT, cháu H bị câm điếc bẩm sinh và hàng tháng được hưởng trợ cấp xã hội là 350.000đ/tháng. Anh không muốn lý hôn, nhưng nếu phải ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả 02 con chung và không yêu cầu chị H cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Anh hiện đi làm nghề thợ xây, có thu nhập và đủ điều kiện nuôi dưỡng con chung.

Về tài sản chung, công nợ chung, công sức: Anh không yêu cầu giải quyết.

Tại bản ghi nguyện vọng con chung: Cháu Nguyễn Công H có nguyện vọng được ở cùng anh H.

Tại phiên tòa:

Chị Nguyễn Thị H giữ nguyên yêu cầu xin ly hôn với anh Nguyễn Công H và giữ nguyên nguyện vọng được nuôi dưỡng cả 02 con chung và không yêu cầu anh H cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Anh Nguyễn Công H giữ nguyên quan điểm anh không đồng ý ly hôn, nếu phải ly hôn anh có nguyện vọng được nuôi dưỡng cả 02 con chung và không yêu cầu chị H cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Chương Mỹ có quan điểm:

Về tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng các quy định của Bộ luật Tố Tụng Dân sự; Các đương sự: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Công H chấp hành đúng quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án.

Về nội dung: Đại diện Viện kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Nguyễn Thị H và cho chị H được ly hôn anh Nguyễn Công H; về con chung: Đề nghị giao cháu Nguyễn Công H cho anh H và cháu Nguyễn Thị H cho chị H nuôi dưỡng, chị H và anh H không phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung; về tài sản chung, công nợ, công sức: Không xem xét;

Về án phí: Chị H phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Anh Nguyễn Công H cư trú tại: Đội 3, thôn T, xã TT, huyện Chương Mỹ. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28; khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015 việc giải quyết vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.

[2] Về nội dung vụ án:

[2.1] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị H kết hôn với anh Nguyễn Công H năm 2007, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã TT, huyện C nên hôn nhân giữa chị H và anh H là hợp pháp. Quá trình chung sống, chị H và anh H đều thừa nhận giữa vợ chồng có nhiều bất đồng về quan điểm sống nên thường xuyên mâu thuẫn cãi nhau và đều thừa nhận vợ chồng đã ly thân từ tháng 12/2019 cho đến nay. Nay chị H xin ly hôn, anh H muốn vợ chồng đoàn tụ.

Xét thấy: Chị H và anh H có mâu thuẫn trong đời sống vợ chồng và đã ly thân được một thời gian tương đối dài, trong thời gian ly thân cả hai đều không có giải pháp cải thiện quan hệ vợ chồng. Xét: Tình cảm vợ chồng để đoàn tụ, cùng nhau xây dựng hạnh phúc cần có sự mong muốn từ hai phía (chị H và anh H). Nay chị H cương quyết xin ly hôn nên cần xác định mâu thuẫn giữa chị H và anh H là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị H và cho chị Hôi được ly hôn anh H để cả hai ổn định cuộc sống.

[2.2] Về con chung: Chị H và anh H có 02 con chung là cháu Nguyễn Công H, sinh ngày 28/02/2009 và cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 24/12/2011. Cả hai cháu hiện đều ở cùng anh H và gia đình anh H (do gia đình anh H và gia đình chị Hương ở cùng thôn với nhau). Ly hôn, chị H và anh H đều có nguyện vọng nuôi dưỡng cả 02 con chung và không yêu cầu bên kia cấp dưỡng tiền nuôi con chung. Xét thấy cả chị H và anh H đều có điều kiện nuôi dưỡng con chung nên cần giao cho mỗi người nuôi một cháu sau khi ly hôn. Cháu Nguyễn Công H là cháu trai nên cần giao cho anh H nuôi dưỡng cho đến khi cháu H tròn 18 tuổi hoặc cho đến khi có quyết định khác, cháu Nguyễn Thị H là cháu gái, hiện cháu bị khuyết tật câm điếc bẩm sinh nên cần giao cháu cho mẹ là chị H chăm sóc. Mặt khác, gia đình chị H và gia đình anh H ở gần nhau nên việc giao con cho ai nuôi dưỡng không ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển của cả hai con chung.

Chị H và anh H đều có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[2.3] Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị H và anh H không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tạm hoãn việc cấp dưỡng tiền nuôi con chung cho chị H và anh H cho đến khi các bên có yêu cầu.

[2.4] Về tài sản chung, công sức, công nợ chung: Không xem xét.

[2.5] Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 39, 227, 228, 266, 271, 273 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015, Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Xử:

[1]. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Nguyễn Thị H và cho chị Nguyễn Thị H được ly hôn anh Nguyễn Công H.

[2]. Về con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Công H có 02 con chung là cháu Nguyễn Công H, sinh ngày 28/02/2009 và cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 24/12/2011.

+ Giao cháu Nguyễn Công H, sinh ngày 28/02/2009 cho anh Nguyễn Công H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục cho đến khi cháu H đủ 18 tuổi hoặc cho đến khi có quyết định khác.

+ Giao cháu Nguyễn Thị H, sinh ngày 24/12/2011cho chị Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục.

Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Công H đều có quyền và nghĩa vụ đi lại thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[3]. Về cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Công H không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tạm hoãn việc cấp dưỡng nuôi con chung cho chị H và anh H cho đến khi các bên có yêu cầu.

[4]. Về tài sản, công nợ chung, công sức: Không xem xét.

[5]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn. Chị Nguyễn Thị H đã nộp 300.000 đồng (theo Biên lai thu tiền tạm ứng án phí số AA/2020/0075256 ngày 01 tháng 7 năm 2021) tại Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Chương Mỹ, Thành phố Hà Nội.

[6]. Về quyền kháng cáo: Án xử công khai sơ thẩm, Chị Nguyễn Thị H và anh Nguyễn Công H có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

393
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con số 338/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:338/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Chương Mỹ - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/09/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;