Bản án về ly hôn, nuôi con số 255/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN NAM HUYỆN PHÚ T, TỈNH AN GIANG

 BẢN ÁN 255/2022/HNGĐ-ST NGÀY 19/07/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Ngày 19 tháng 7 năm 2022, tại Tòa án nhân dân huyện Phú T xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 118A/2022/TLST-HNGĐ ngày 04/4/2022 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số:

84/2022/QĐXXST-HNGĐ, ngày 10 tháng 5 năm 2022 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị Yến N, sinh năm 1994.

Đa chỉ: Ấp 2, xã Gáo G, huyện Cao L, tỉnh Đồng Tháp.

2. Bị đơn: Ông Lê Quang H, sinh năm 1984.

Điạ chỉ: Số 475, ấp Hậu G, xã Tân H, huyện Phú T, tỉnh An Giang. (Các đương sự vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ly hôn ngày 09/3/2022 nguyên đơn Bà Nguyễn Thị Yến N trình bày:

Bà N và ông H sau thời gian tìm hiểu và được cha mẹ hai bên đồng ý tổ chức lễ cưới theo nghi thức truyền thống lần đầu năm 2012 sống hạnh phúc đến năm 2016 Bà N nộp đơn ly hôn tại Tòa hết một lần, sau đó vợ chồng hàn gắn tình cảm nên vợ chồng đi đăng ký kết hôn lại tại Ủy ban nhân dân xã Tân H, huyện Phú T, tỉnh An Giang. Giấy chứng nhận kết hôn số 31, ngày 14 tháng 6 năm 2018. Chung sống hạnh phúc một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và thường xuyên cải nhau vì những chuyện vặt trong gia đình, ông H thường xuyên nhậu nhẹt, kinh tế gia đình chỉ một mình Bà N lo liệu, sống chung vợ chồng nhưng ông H nghe lời cha mẹ đẻ, không quan tâm, chia sẻ tâm tư tình cảm vợ con. Sự việc kéo dài nhiều năm, tháng 3/2021 Bà N bỏ lên Sài Gòn tìm việc làm, vợ chồng ly thân, trong thời gian ly thân ông H không tới lui thăm hỏi hay có ý hàn gắn tình cảm vợ chồng. Nay tình cảm không còn, yêu cầu được ly hôn với ông H.

Về con chung: Bà N và ông H có 02 người con chung tên Lê Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 16/05/2013 và Lê Nguyễn Hoàng Kh, sinh ngày 03/7/2018 con chung hiện đang sống với Bà N, khi ly hôn Bà N yêu cầu được nuôi con chung đến trưởng thành, không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản chung: Không.

Về nợ chung: Không. Ngày 10/5/2022 Bà Nguyễn Thị Yến N có đơn xin xét xử vắng mặt Bị đơn ông H vắng mặt từ khi Tòa án thụ lý nhưng có mặt tại phiên Tòa ngày 15/6/2022, ông H trình bày:

Về hôn nhân: Tôi thống nhất phần trình bày của Bà N về thời gian kết hôn, ly thân, mâu thuẫn vợ chồng, nếu Bà N cương quyết ly hôn, tôi đồng ý ly hôn. Vợ chồng có hai con chung tên Lê Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 16/5/2013 và Lê Nguyễn Hoàng Kh, sinh ngày 03/7/2018. Hiện tại hai con chung đang sống với Bà N, nếu ly hôn ông H yêu cầu được nuôi con chung tên Lê Nguyễn Hoàng Kh, nếu Tòa án giao con cho ông nuôi dưỡng, ông không yêu cầu Bà N cấp dưỡng cho con. Tài sản chung, nợ chung không có.

Tòa án tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân được bà Lê Thị Mỹ Duyên em ruột ông H cho biết: Ông Lê Quang H là anh ruột, Bà Nguyễn Thị Yến N là chị dâu, hôn nhân của ông, bà là do tìm hiểu rồi thành vợ chồng, quá trình chung sống vợ chồng hay cải nhau, trước đây vợ chồng ông H đã ly hôn hết một lần sau đó hàn gắn tình cảm sống chung lại và đi đăng ký kết hôn lại vào năm 2018. Nguyên nhân Bà N yêu cầu ly hôn là do lúc dịch bệnh Nhi về nhà cha mẹ đẻ sống và ông H về quê sống và nuôi cha lúc bệnh, không gửi tiền sinh hoạt cho Nhi nên vợ chồng cải nhau, tôi được biết ông H cũng có ý định ly hôn nhưng do đi làm không về được.

Trong thời gian sống chung ông H, Bà N có hai người con: Lê Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 16/5/2013 và Lê Nguyễn Hoàng Kh, sinh ngày 03/7/2018 con chung đang sống với Bà N, tùy Tòa án giải quyết theo quy định pháp luật.

Tài sản chung, nợ chung: Được biết là không có.

Tại phiên tòa, kiểm sát viên phát biểu về quá trình tiến hành tố tụng và đề xuất như sau:

- Về thủ tục tố tụng: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định pháp luật.

- Về việc giải quyết vụ án: Hôn nhân của ông H và Bà N được xác lập trên cở sở tự tìm hiểu, hôn nhân có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn. Đây là hôn nhân hợp pháp được pháp luật bảo vệ; quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và ly thân, từ khi ly thân đến nay không hàn gắn được. Nên yêu cầu ly hôn của Bà N là có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.

Về con chung: Hiện tại đang sống với Bà N, ông H yêu cầu nuôi con nhưng khi Tòa án yêu cầu ông cung cấp chứng cứ để chứng minh thu nhập và tham gia hòa giải và phiên Tòa nhưng ông không có mặt, điều đó đồng nghĩa ông không thiết tha việc nuôi con, chỉ có ý kiến nuôi con là để kéo dài vụ án. Hai con chung hiện tại đang sống với Bà N, Bà N không yêu cầu cấp dưỡng. Đề nghị HĐXX giao con chung cho Bà N tiếp tục nuôi dưỡng.

Về tài sản chung, Nợ chung: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về tố tụng:

Về quan hệ tranh chấp: Bà N khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông H nên quan hệ tranh chấp của vụ án là “Ly hôn, nuôi con khi ly hôn” theo quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

Về thẩm quyền giải quyết: Nguyên đơn Bà Nguyễn Thị Yến N có đơn xin xét xử vắng mặt, bị đơn Ông Lê Quang H vắng mặt tại phiên Tòa lần thứ 2, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt Bà N, ông H là phù hợp với quy định Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

Hiện tại Ông Lê Quang H có nơi cư trú tại ấp Hậu G, xã Tân H, huyện Phú T, tỉnh An Giang nên căn cứ theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân huyện Phú T, tỉnh An Giang.

[2.] Về nội dung:

Hôn nhân của Bà N và ông H được xác lập năm 2012 trên cơ sở tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn nên hôn nhân của ông bà là hôn nhân hợp pháp nên làm phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa vợ chồng.

Xét về yêu cầu ly hôn, thấy rằng: Trong thời gian chung sống vợ chồng ông H, Bà N có nhiều mâu thuẫn nên thường xuyên cải vã, mâu thuẫn kéo dài, đời sống tình cảm ngày càng trầm trọng. Năm 2016 Bà N đã nộp đơn ly hôn hết một lần, sau đó vợ chồng hàn gắn tình cảm sống lại với nhau nhưng vẫn không tìm được tiếng nói chung, năm 2021 Bà N bỏ về nhà cha mẹ sống, vợ chồng ly thân trong thời gian ly thân ông H không tới lui thăm hỏi hay có ý hàn gắn tình cảm vợ chồng, đều này phù hợp với lời trình bày của bà Lê Thị Mỹ Duyên.

Theo quy định tại Điều 19, Luật hôn nhân và gia đình 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẽ, thực hiện các công việc trong gia đình; Vợ chồng có nghĩa vụ sống chung với nhau….”. Thế nhưng vợ chồng ông H, Bà N không còn chung sống khoảng một năm nay là khoảng thời gian dài. Điều này chứng tỏ vợ chồng không còn yêu thương, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cũng như không thể chia sẻ công việc trong gia đình với nhau được nữa, đời sống chung của vợ chồng không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Hội đồng xét xử thống nhất cho Bà N được ly hôn ông H.

[3] Về con chung: Bà N và ông H trình bày vợ chồng có 02 người con chung tên Lê Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 16/5/2013 và Lê Nguyễn Hoàng Kh, sinh ngày 03/7/2018 con chung chưa thành niên. Tại bản tự khai ngày 07/4/2022 cháu Khoa có nguyện vọng được sống chung với mẹ.

Xét thấy từ khi ly thân đến nay con chung đang sống với Bà N, có cuộc sống ổn định, tại phiên Tòa ngày 15/6/2022 ông H cũng thống nhất hai con chung đang sống với Bà N có cuộc sống ổn định, trong thời gian ly thân ông H không tới lui thăm con, nhưng có ý kiến được nuôi con chung cháu Khánh, Tòa án thông báo cho ông H cung cấp chứng cứ để chứng minh thu nhập và tham gia hòa giải nhưng ông không có mặt và cũng không cung câp chứng cứ gì, điều đó đồng nghĩa, ý kiến xin được nuôi con, chỉ để kéo dài vụ án. Vì thế hội đồng xét xử thống nhất, tiếp tục giao hai con chung cho Bà N nuôi dưỡng, chăm sóc là phù hợp và thỏa mãn Điều 81 Luật hôn nhân gia đình năm 2014. Bà N không yêu cầu cấp dưỡng cho con nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở.

Bà N trình bày tài sản chung, nợ chung không có nên Hội đồng xét xử không xem xét. Nhưng sau khi Bản án có hiệu lực pháp luật nếu có nguyên đơn xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của vợ, chồng trong thời kỳ hôn nhân thì phải liên đới chịu trách nhiệm với tư cách đồng bị đơn trong vụ án dân sự khác.

[4] Về án phí: Bà N phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ Khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; điểm a khoản 1 Điều 39; Điều 227, Điều 228; khoản 4 Điều 147; Điều 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;

-Điều 19, Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình.

-Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho Bà Nguyễn Thị Yến N được ly hôn với Lê Quang Hiển.

Giấy chứng nhận kết hôn số 31, ngày 14/06/2018 của Ủy ban nhân dân xã Tân H, huyện Phú T, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý.

Về con chung: Bà Nguyễn Thị Yến N được tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chung tên Lê Nguyễn Đăng Kh, sinh ngày 16/05/2013 và Lê Nguyễn Hoàng Kh, sinh ngày 03/7/2018. Con chung hiện đang sống với Bà N. Ông Lê Quang H không phải cấp dưỡng cho con.

Việc nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục con chưa thành niên không cố định Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom mà không ai được cản trở.

Về tài sản chung: Không.

Nợ phải thu, phải trả chung của vợ chồng: Không.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị Yến N phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu ly hôn là 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng), được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu tiền số 0004432 ngày 01/4/2022 của Chi cục Thi hành án huyện Phú T, tỉnh An Giang. Bà N không phải nộp thêm án phí.

Ông Lê Quang H không phải chịu án phí.

Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà N, ông H vắng mặt tại phiên tòa thời hạn kháng cáo đối với bản án là 15 ngày tính từ ngày ông, bà nhận được bản án hoặc niêm yết.

Trường hợp Bản án, Quyết định được thi hành theo qui định tại điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

166
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con số 255/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:255/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - An Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 19/07/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;