Bản án về ly hôn, nuôi con số 149/2024/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 149/2024/HNGĐ-ST NGÀY 02/10/2024 VỀ LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 03 tháng 10 năm 2024 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 327/2024/TLST-HNGĐ, ngày 02/07/2024 về tranh chấp “Ly hôn, nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 99/2024/QĐXXST-HNGĐ ngày 29/08/2024 và Quyết định hoãn phiên toà số 125/2024/QĐ-HNGĐ, ngày 16/09/2024 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Huỳnh N, sinh năm 1996 (xin vắng) Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn T, sinh năm 1993 (vắng mặt) Địa chỉ: ấp C, xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long

NỘI DUNG VỤ ÁN

- Tại đơn khởi kiện đề ngày 18/06/2024 và trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Huỳnh N trình bày:

Vào năm 2019, do quen biết nên chị và anh Nguyễn Văn T tìm hiểu nhau rồi tiến đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn vào ngày 04/01/2019 tại Ủy ban nhân dân xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long.

Thời gian đầu, vợ chồng chung sống rất hạnh phúc Nng chỉ kéo dài đến năm 2024 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, do thường xuyên bất đồng ý kiến với nhau về những việc trong cuộc sống gia đình, anh T thường xuyên cờ bạc, không lo làm ăn để lo cho gia đình. Mặc dù chị đã cố gắng khắc phục, vun đấp tình cảm Nng không thể khắc phục được. Do đó vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ tháng 04/2024 cho đến nay. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T không còn nữa. Từ đó làm cho mâu thuẫn của vợ chồng ngày càng gay gắt hơn, không thể khắc phục được, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

Về con chung: Chị yêu cầu nuôi con chung là cháu Nguyễn Huỳnh Bảo N1, sinh ngày 12/01/2022 và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

- Bị đơn anh Nguyễn Văn T vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên không trình bày.

- Trong đơn xin xét xử vắng mặt ngày 29/08/2024, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Huỳnh N trình bày: Chị yêu cầu ly hôn với anh Nguyễn Văn T. Về con chung: Chị yêu cầu nuôi con chung là cháu Nguyễn Huỳnh Bảo N1, sinh ngày 12/01/2022 và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con. Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ngoài các yêu cầu trên, các đương sự không có yêu cầu nào khác và cũng không có cung cấp tài liệu, chứng cứ mới tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên toà, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

- Về pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn chị Nguyễn Thị Huỳnh N khởi kiện yêu cầu ly hôn, nuôi con nên đây là quan hệ pháp luật tranh chấp về “Ly hôn, nuôi con”; bị đơn anh Nguyễn Văn T cư trú tại xã Hòa Hiệp, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

- Về pháp luật nội dung:

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chị N và anh T có quen biết tìm hiểu nhau từ năm 2019 rồi đi đến hôn nhân, có tổ chức lễ cưới và có đăng ký kết hôn tại UBND xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long ngày 04/01/2019 nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

Theo chị Nguyễn Thị Huỳnh N trình bày: Thời gian đầu, vợ chồng chung sống rất hạnh phúc Nng chỉ kéo dài đến năm 2024 thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, do thường xuyên bất đồng ý kiến với nhau về những việc trong cuộc sống gia đình, anh T thường xuyên cờ bạc, không lo làm ăn để lo cho gia đình. Mặc dù chị đã cố gắng khắc phục, vun đấp tình cảm Nng không thể khắc phục được. Do đó vợ chồng đã sống ly thân với nhau từ tháng 04/2024 cho đến nay. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng giữa chị và anh T không còn nữa. Từ đó làm cho mâu thuẫn của chúng chị ngày càng gay gắt hơn, không thể khắc phục được, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

Xét thấy, quan hệ hôn nhân của vợ chồng phải được xây dựng trên cơ sở tình cảm tự nguyện, có sự quan T chăm sóc lẫn nhau, vun đắp hạnh phúc, làm tròn quyền và nghĩa vụ của vợ chồng, tuy nhiên hiện tại vợ chồng chị N và anh T đã sống ly thân, mỗi người ở một nơi, không còn quan T, chăm sóc lẫn nhau. Qua đó cho thấy hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị N được ly hôn với anh T là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014: “... Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ, chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được”.

[2]. Về con chung: Chị Nguyễn Thị Huỳnh N khai có con chung với anh Nguyễn Văn T là cháu Nguyễn Huỳnh Bảo N1, sinh ngày 12/01/2022 và yêu cầu được nuôi con chung.

Xét thấy việc quyết định giao con cho người cha hoặc người mẹ nuôi dưỡng sau khi ly hôn cần phải dựa trên quyền lợi về mọi mặt của người con, về điều kiện trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung. Theo quy định tại khoản 2, 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con” và“Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con”.

Hiện tại cháu N1 đang sống chung với chị N, do đó để đảm bảo quyền lợi và sự phát triển của cháu. Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của chị N là giao cháu Trần Nguyễn Huỳnh Bảo N1, sinh ngày 12/01/2022 cho chị N tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục là phù hợp với quy định của pháp luật.

Anh Nguyễn Văn T được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.

[3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị Nguyễn Thị Huỳnh N khai chưa yêu cầu, anh Nguyễn Văn T cũng chưa có văn bản nào trình bày về việc cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Chị Nguyễn Thị Huỳnh N khai chưa yêu cầu, anh Nguyễn Văn T cũng chưa có văn bản nào trình bày về tài sản chung, nợ chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147, khoản 2 Điều 227, Điều 228, 238, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ các Điều 56, 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1]. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu của chị Nguyễn Thị Huỳnh N được ly hôn với anh Nguyễn Văn T.

[2]. Về con chung: Giao cháu Nguyễn Huỳnh Bảo N1, sinh ngày 12/01/2022 cho chị Nguyễn Thị Huỳnh N tiếp tục nuôi dưỡng, giáo dục.

Anh Nguyễn Văn T được quyền, nghĩa vụ đến thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung mà không ai được quyền cản trở.

[3]. Về cấp dưỡng nuôi con: Do chưa có yêu cầu, nên không đặt ra giải quyết.

[4]. Về tài sản chung, nợ chung: Do chưa có yêu cầu, nên không đặt ra giải quyết.

[5]. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Huỳnh N phải nộp án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn là 300.000đ Nng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số No 0014296 ngày 02/07/2024 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Chị Nguyễn Thị Huỳnh N đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án; quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

[6]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

108
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con số 149/2024/HNGĐ-ST

Số hiệu:149/2024/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 02/10/2024
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập


  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: [email protected]
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;