Bản án về ly hôn, nuôi con khi ly hôn giữa anh Ch và chị H số 173/2021/HNGĐ-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HẢI HẬU, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 173/2021/HNGĐ-ST NGÀY 18/08/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN GIỮA ANH CH VÀ CHỊ H

Ngày 18 tháng 08 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Hải Hậu, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 139/2021/TLST- HNGĐ ngày 09 tháng 07 năm 2021 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 103/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 06 tháng 08 năm 2021 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Anh Nguyễn Trường Ch, sinh năm 1992. Địa chỉ: Khu 8, xã GT, huyện PN, tỉnh Phú Thọ.

- Bị đơn: Chị Vũ Kim H, sinh năm 1998. Địa chỉ: Xóm 3, xã HL, huyện HH, tỉnh Nam Định.

(Anh Ch, chị H đều vắng mặt có lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện xin ly hôn đề ngày 17-06-2021, bản tự khai ngày 09- 07-2021 và quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn anh Nguyễn Trường Ch trình bày:

Anh Nguyễn Trường Ch và chị Vũ Kim H đăng ký kết hôn với nhau ngày 28/10/2016 tại Ủy ban nhân dân xã Gia Thanh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ, trên cơ sở tự do tìm hiểu, tự nguyện kết hôn. Sau khi kết hôn, vợ cH chung sống nhờ nhà bố mẹ đẻ của chị H tại xóm 3, xã HL, huyện HH, tỉnh Nam Định. Vợ cH chung sống hòa thuận được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyễn nhân mâu thuẫn là do vợ cH bất đồng quan điểm sống nên thường xuyên cãi, chửi nhau. Tháng 6 năm 2018, vợ cH mâu thuẫn trầm trọng, anh Ch bỏ về Phú Thọ, chị H và con chung vẫn ở nhờ bố mẹ đẻ. Anh Ch, chị H sống ly thân, chấm dứt mọi quan hệ tình cảm, trách nhiệm từ đó đến nay. Nay anh Ch nhận thấy tình cảm vợ cH không còn nên đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với chị H.

Về con chung: Vợ cH có 01 con chung là cháu Nguyễn Phương Vy, sinh ngày 24-07-2017 hiện đang do chị H nuôi dưỡng. Khi ly hôn, vì điề kiện kinh tế khó khăn nên anh Ch có nguyện vọng giao con cho chị H nuôi dưỡng, anh Ch không nhận cấp dưỡng nuôi con cho chị H.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Anh Ch và chị H không có tài sản chung, không có nghĩa vụ chung về tài sản nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 09-7-2021, bị đơn chị Vũ Kim H có lời khai thống nhất với anh Ch về thời gian kết hôn, quá trình chung sống, nguyên nhân mâu thuẫn và thời gian sống ly hôn. Nay xét thấy mâu thuẫn vợ cH đã diễn ra suốt thời gian dài không thể khắc phục, hàn gắn; tình cảm vợ cH thực sự không còn nên chị H nhất trí thuận tình ly hôn.

Về con chung: Chị H xác nhận vợ cH có 01 con chung như anh Ch đã trình bày. Khi ly hôn, chị H có nguyện vọng nuôi dưỡng con chung, không yêu cầu anh Ch cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị H xác nhận vợ cH không có tài sản chung, không có nghĩa vụ chung về tài sản nên không yêu cầu Toà án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà; căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn, anh Nguyễn Trường Ch và chị Vũ Kim H có đơn xin xét xử vắng mặt nên Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt anh Ch, chị H là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 227; khoản 1, khoản 3 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Quan hệ vợ cH giữa anh Nguyễn Trường Ch và chị Vũ Kim H là quan hệ hôn nhân hợp pháp vì được xây dựng trên cơ sở tự nguyện và được Ủy ban nhân dân xã Gia Thanh, huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ đăng ký kết hôn ngày 28-10-2016.

Xét yêu cầu xin ly hôn của anh Ch và chị H thì thấy: Trong suốt quá trình chung sống, do tính tình, quan điểm sống không hợp nhưng lại không có những biện pháp cụ thể, thiết thực để giải quyết, khắc phục nên giữa anh Ch, chị H thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, cãi chửi nhau. Tháng 6 năm 2018, do mâu thuẫn trậm trọng nên cuộc sống chung giữa anh Ch và chị H chấm dứt từ đó cho đến nay. Kể từ khi sống ly thân, anh Ch, chị H cũng không có biện pháp để hòa giải, đoàn tụ gia đình. Trên cơ sở xem xét đơn đề nghị của chị H có xác nhận của chính quyền địa phương về tình trạng mâu thuẫn; căn cứ lời khai của anh Ch, chị H, Hội đồng xét xử xác định: Mâu thuẫn vợ cH giữa anh Ch và chị H đã trầm trọng, tình cảm vợ cH không còn, cuộc sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của anh Ch, chị H, cho anh Nguyễn Trường Ch được ly hôn chị Vũ Kim H là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Anh Nguyễn Trường Ch và chị Vũ Kim H có 01 con chung là cháu Nguyễn Tường Vy, sinh ngày 24-07-2017. Hiện con chung đang ở với chị H. Khi ly hôn, anh Ch và chị H đều nhất trí giao con chung cho chị H nuôi dưỡng, anh Ch không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho chị H. Xét nguyện vọng của anh Ch, chị H trong việc nuôi con là tự nguyện, phù hợp quy định pháp luật nên xét cần giao con chung cho chị H nuôi dưỡng, chăm sóc; anh Ch không phải cấp dưỡng tiền nuôi con cho chị H là phù hợp với quy định tại các Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Quá trình giải quyết vụ án, anh Ch, chị H xác định vợ cH không có tài sản chung, không có nghĩa vụ chung về tài sản, không yêu cầu Toà án giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[5] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Nguyễn Trường Ch nộp án phí sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 56 và các Điều 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; Điều 227, 228 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Nguyễn Trường Ch và chị Vũ Kim H.

2. Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Tường Vy sinh ngày 24-07- 2017 chị Vũ Kim H tiếp tục nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi con chung thành niên và có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình. Anh Ch không phải đóng góp tiền cấp dưỡng nuôi con cho chị H mà có quyền thăm nom con chung nhưng không được lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây anh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Do con chung đang ở với chị H nên anh Ch không phải thực hiện nghĩa vụ giao con cho chị H.

3. Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ Điều 147, điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, anh Nguyễn Trường Ch phải nộp 300.000đ (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ tại biên lai số AA/2017/0002696 ngày 09-07-2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Hải Hậu; anh Nguyễn Trường Ch đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

169
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con khi ly hôn giữa anh Ch và chị H số 173/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:173/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hải Hậu - Nam Định
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 18/08/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;