Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 79/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN AN MINH, TỈNH KIÊN GIANG

BẢN ÁN 79/2022/HNGĐ-ST NGÀY 17/08/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG 

Ngày 17 tháng 8 năm 2022, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện An Minh, tỉnh Kiên Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 132/2022/TLST- HNGĐ ngày 27 tháng 6 năm 2022 về "ly hôn, nuôi con chung".

Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 131/2022/QĐXXST- HNGĐ ngày 29 tháng 7 năm 2022, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Thùy T, sinh năm 1986 Địa chỉ: ấp H, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1980 HKTT: ấp H, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

Chỗ ở hiện nay: ấp X, xã T, huyện A, tỉnh Kiên Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn chị Nguyễn Thị Thùy T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Năm 2005, chị và anh Nguyễn Văn C tìm hiểu, sau đó chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện nhưng không có đăng ký kết hôn. Chị và anh C chung sống được thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do anh C không quan tâm đến gia đình, thường xuyên uống rượu bia, anh chị không hòa hợp nhau, suy nghĩ khác nhau và thường hay cự cãi. Mặc dù đã cho nhiều cơ hội hàn gắn nhưng không có kết quả, hiện nay tình cảm không còn, chị và anh C không thể cùng nhau xây dựng cuộc sống chung. Do đó, chị yêu cầu Tòa án không công nhận chị và anh C là vợ chồng.

Về con chung: chị và anh C có 02 người con chung là Nguyễn Văn A1, sinh ngày 11/7/2006 đang sống chung với anh C, có nguyện vọng sống chung với anh C; Nguyễn Thị Ngọc V, sinh ngày 26/6/2016, hiện chị đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng Nguyễn Thị Ngọc V, anh C tiếp tục nuôi dưỡng Nguyễn Văn A1, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con cùng nhau.

Về tài sản chung, nợ chung: Chị và anh C tự thỏa thuận, không có tranh chấp, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

* Bị đơn anh Nguyễn Văn C trình bày: Anh thống nhất với lời trình bày của chị T về hôn nhân, con chung, tài sản chung và nợ chung. Quá trình chung sống, anh chị không hòa hợp nhau, suy nghĩ khác nhau và thường hay cự cãi, anh chị không tìm được tiếng nói chung. Hiện nay anh và chị T không còn tình cảm, không thể cùng nhau xây dựng cuộc sống gia đình. Nay anh cũng thống nhất với yêu cầu của chị T yêu cầu Tòa án không công nhận anh chị là vợ chồng. Anh cũng đồng ý để chị T tiếp tục nuôi dưỡng Nguyễn Thị Ngọc V, anh tiếp tục nuôi dưỡng Nguyễn Văn A1, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con cùng nhau.

Về tài sản chung, nợ chung: Anh chị tự thỏa thuận, không có tranh chấp, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Do không có điều kiện đến Tòa án tham dự phiên tòa nên anh xin được vắng mặt.

Tại phiên tòa, nguyên đơn chị T yêu cầu Tòa án không công nhận anh chị là vợ chồng, chị yêu cầu tiếp tục nuôi dưỡng Nguyễn Thị Ngọc V, anh C tiếp tục nuôi dưỡng Nguyễn Văn A1, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con cùng nhau. Về tài sản chung, nợ chung anh chị không có tranh chấp, không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện An Minh có ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Về hướng giải quyết vụ án, đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, không công nhận chị T và anh C là vợ chồng, chị T tiếp tục nuôi dưỡng Nguyễn Thị Ngọc V, anh C tiếp tục nuôi dưỡng Nguyễn Văn A1. Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung, nợ chung không yêu cầu nên không xem xét, giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn anh Nguyễn Văn C có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Do đó, Hội đồng xét xử thống nhất áp dụng khoản 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt anh C.

[2] Về quan hệ hôn nhân, chị T và anh C tìm hiểu, sau đó chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện từ năm 2005 nhưng đến nay không có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Xét thấy, mặc dù đủ điều kiện kết hôn theo quy định nhưng anh chị không đăng ký kết hôn là vi phạm Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình.

[3] Chị T và anh C thống nhất xác định trong quá trình chung sống anh chị có nhiều mâu thuẫn, suy nghĩ khác nhau và thường hay cự cãi. Anh chị cũng dành cho nhau cơ hội hàn gắn nhưng không có kết quả, không khắc phục được mâu thuẫn, không tìm được tiếng nói chung và đã ly thân từ tháng 11/2021. Từ khi nộp đơn khởi kiện ly hôn đến nay anh chị đều không có ý định cùng nhau xây dựng gia đình, cả hai đều xác định không còn tình cảm với nhau và cùng yêu cầu Tòa án không công nhận anh chị là vợ chồng. Xét thấy, chị T và anh C chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn nên không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 14 và Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị T và anh C.

[4] Về con chung, chị T và anh C có 02 người con chung là Nguyễn Văn A1, sinh ngày 11/7/2006 đang sống chung với anh C, có nguyện vọng sống chung với anh C; Nguyễn Thị Ngọc V, sinh ngày 26/6/2016, hiện chị T đang nuôi dưỡng. Khi ly hôn, anh chị thống nhất để chị T tiếp tục nuôi dưỡng Nguyễn Thị Ngọc V, anh C tiếp tục nuôi dưỡng Nguyễn Văn A1. Xét thấy, chị T và anh C có đủ điều kiện nuôi con, đồng thời cũng phù hợp với nguyện vọng của cháu A1 và lợi ích của con nên Hội đồng xét xử chấp nhận sự thỏa thuận của anh chị về việc để chị T tiếp tục nuôi dưỡng Nguyễn Thị Ngọc V, anh C tiếp tục nuôi dưỡng Nguyễn Văn A1. Anh chị có quyền, nghĩa vụ tới lui thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật, không ai được quyền cản trở. Trường hợp anh chị vi phạm nghĩa vụ nuôi con hoặc không còn đủ điều kiện nuôi con thì anh chị có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con. Về cấp dưỡng, không ai yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

[5] Về tài sản chung và nợ chung, chị T và anh C đều khai tự thỏa thuận, không có tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

[6] Về án phí, nguyên đơn chị T phải chịu án phí ly hôn theo quy định là 300.000 đồng.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, Điều 35, Điều 147, khoản 1 Điều 228, Điều 266, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự;

Áp dụng các Điều 9, Điều 14, Điều 15, Điều 16, Điều 53, Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Nguyễn Thị Thùy T và anh Nguyễn Văn C.

2. Về con chung: Tiếp tục giao cháu Nguyễn Thị Ngọc V, sinh ngày 26/6/2016 cho chị T được trực tiếp nuôi dưỡng.

Tiếp tục giao cháu Nguyễn Văn A1, sinh ngày 11/7/2006 cho anh C được trực tiếp nuôi dưỡng.

Anh chị có quyền, nghĩa vụ tới lui thăm nom, chăm sóc con chung theo quy định của pháp luật, không ai được quyền cản trở. Trường hợp anh chị vi phạm nghĩa vụ nuôi con hoặc không còn đủ điều kiện nuôi con thì anh chị có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Về cấp dưỡng, không ai yêu cầu nên Tòa án không xem xét.

3. Về tài sản chung và nợ chung: chị T và anh C đều khai tự thỏa thuận, không có tranh chấp nên không yêu cầu Tòa án xem xét, giải quyết.

4. Về án phí sơ thẩm: chị T phải chịu án phí ly hôn là 300.000 đồng, được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo lai thu số 0005460 ngày 20/6/2022 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện An Minh.

5. Về quyền kháng cáo: Đương sự có mặt được quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; đương sự vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn là 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

138
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 79/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:79/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện An Minh - Kiên Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/08/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;