Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 66/2022/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CÁI BÈ, TNH TIỀN GIANG

BN ÁN 66/2022/HNGĐ-ST NGÀY 31/03/2022 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 31 tháng 3 năm 2022 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 435/2021/TLST-HNGĐ ngày 15/11/2021 về việc tranh chấp “Ly hôn, nuôi con chung”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số : 41A/2022/QĐXXST-HNGĐ ngày 22/02/2022 giữa các đương sự:

* Nguyên đơn: Chị Cao Thị T, sinh năm 1985. Địa chỉ: ấp A, xã Đ, huyện Cái Bè, Tiền Giang.

* Bị đơn: Anh Nguyễn Văn D, sinh năm 1983. Địa chỉ: ấp A, xã Đ, huyện Cái Bè, Tiền Giang.

(Chị T có mặt; anh D vắng mặt không rõ lý do)

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 19/4/2021 các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa Cao Thị T trình bày:

Về quan hệ hôn nhân: Do tìm hiểu quen biết trước chị T với anh D xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hòa Khánh theo giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 120 ngày 13/6/2011. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau nên thường xuyên cãi vã và anh D không lo 1 làm mà hay chơi cờ bạc dẫn đến nợ nần. Vợ chồng đã ly thân từ đó cho đến nay. Do cuộc sống vợ chồng sống không hạnh phúc, mâu thuẫn kéo dài không hàn gắn đoàn tụ lại được nên chị T yêu cầu ly hôn với anh D.

Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Cao Duy K, sinh ngày 30/6/2012 và Nguyễn Cao Ánh D, sinh ngày 15/8/2017, khi ly hôn chị T yêu cầu nuôi hết 02 con không yêu cầu anh D cấp dưỡng.

Về tài sản và nợ chung: Tự thỏa thuận, nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn anh Nguyễn Văn D đã được Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo về việc thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai, chứng cứ và hoà giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa, nhưng vẫn không có ý kiến gì đối với yêu cầu khởi kiện của chị Thắm và không có mặt tại phiên tòa.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bị đơn anh Nguyễn Văn D đã được Toà án tống đạt hợp lệ quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên toà nhưng không có mặt để dự phiên toà mà không có lý do, nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt anh D là có căn cứ đúng quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Do tìm hiểu quen biết trước chị T với anh D xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2011, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Hòa Khánh theo giấy đăng ký kết hôn số 120 ngày 13/6/2011. Sau khi cưới vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2020 phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau nên thường xuyên cãi vã anh D không lo làm mà hay chơi cờ bạc dẫn đến nợ nần. Vợ chồng đã ly thân từ đó cho đến nay. Do cuộ c s ố ng vợ chồng sống không hạnh phúc, mâu thuẫn kéo dài không hàn gắn đoàn tụ lại được nên chị T yêu cầu ly hôn với anh D.

Xét, sau khi chị T và anh D xác lập quan hệ vợ chồng vào năm 2011, vợ chồng chung sống hạnh phúc được thời gian cho đến năm 2020 thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính tình không hợp nhau nên thường xuyên cãi vã và anh D không lo làm mà hay chơi cờ bạc dẫn đến nợ nần. Sau khi Toà án thụ lý vụ án đã tống đạt đầy đủ các thủ tục tố tụng cho anh D để thông báo về yêu cầu ly hôn của chị T, nhưng anh D không có ý kiến gì và không có mặt tham gia các phiên hoà giải và tham dự phiên tòa, nên không đưa ra được một biện pháp cụ thể nào để hàn gắn lại mối quan hệ vợ chồng. Anh D không đến dự phiên toà là anh mặc nhiên từ bỏ cơ hội để vợ chồng hàn gắn, đoàn tụ với nhau. Mặc dù, Tòa án đã động viên, hòa giải nhưng chị T vẫn kiên quyết yêu cầu ly hôn với anh D. Từ những tình tiết này, đã có đủ cơ sở để Hội đồng xét xử nhận định tình trạng hôn nhân giữa chị T và anh D đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T là phù hợp với quy định tại Điều 51, Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Cao Duy K, sinh ngày 30/6/2012 và Nguyễn Cao Ánh D, sinh ngày 15/8/2017, khi ly hôn chị T yêu cầu nuôi hết 02 con chung. Xét, anh D không có ý kiến hay yêu cầu về việc chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, nhưng từ khi chị T và anh D sống ly thân cho đến nay 02 con chung do chị T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng đã ổn định cuộc sống và đảm bảo tốt về mọi mặt. Đồng thời, theo lời khai của cháu K cũng có nguyện vọng được sống với chị T khi chị T và anh D ly hôn. Do đó, để ổn định cuộc sống cho 02 con chung nên giao cháu K và cháu D cho chị T nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại các Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình. Chị T không yêu cầu anh D cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không đặt ra để xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản và nợ chung: Tự thoả thuận, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[5] Về án phí: Do chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của chị T, căn cứ vào Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án nên chị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình; điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228, Điều 271, Điều 272 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội quy định về án phí và lệ phí Toà án.

Xử :

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Cao Thị T được ly hôn với anh Nguyễn Văn D.

2. Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Cao Duy K, sinh ngày 30/6/2012 và Nguyễn Cao Ánh D, sinh ngày 15/8/2017 cho chị Cao Thị T tiếp tục chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh D không phải cấp dưỡng nuôi con do chị T không có yêu cầu. Anh D có quyền tới lui thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản.

3. Về án phí: Chị Cao Thị T phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân sơ thẩm được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0000906 ngày 15/11/2021 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang, nên xem như chị T đã nộp xong tiền án phí.

4. Về quyền kháng cáo: Chị Cao Thị T có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Anh Nguyễn Văn D có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang xét xử phúc thẩm.

5. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

160
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 66/2022/HNGĐ-ST

Số hiệu:66/2022/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Cái Bè - Tiền Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/03/2022
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;