Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 38/2021/HNGĐ-ST

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN THIẾT

BẢN ÁN 38/2021/HNGĐ-ST NGÀY 17/05/2021 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG 

Ngày 17 tháng 5 năm 2021 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 52/2021/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 01 năm 2021 về việc “Ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 69/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 08/4/2021, quyết định hoãn phiên tòa số 85/2021/QĐST-HNGĐ ngày 27/4/2021 giữa:

1. Nguyên đơn: Bà Nguyễn Thị H , sinh năm 1996 Nơi cư trú: thôn T, xã T1, huyện N, tỉnh T.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh L, sinh năm 1994 Nơi cư trú: thôn H, xã T, thành phố T1, tỉnh T2.

Tại phiên tòa có mặt nguyên đơn, vắng mặt bị đơn.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Theo đơn khởi kiện, trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn bà Nguyễn Thị H trình bày:

Bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Thanh L tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T , thành phố T1, tỉnh T2 theo giấy chứng nhận kết hôn số 63 ngày 25/9/2015. Trong quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra xung đột, mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống và ông L có đánh bà H. Hơn 5 tháng nay bà H bỏ về nhà cha, mẹ sống và bà xác định không còn tình cảm vợ chồng nên yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn ông Nguyễn Thanh L.

- Về con: bà H, ông L có 01 con là Nguyễn Nhã Phương U (giới tính nữ) - sinh ngày 07/3/2015. Bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con và không yêu cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản và nợ : Bà H không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Bị đơn ông Nguyễn Thanh L trình bày : Về quá trình đi đến hôn nhân như bà H trình bày. Trong quá trình chung sống, vợ chồng không có mâu thuẫn gì lớn, ông thừa nhận có đánh bà H vài cái, tuy nhiên nếu vợ chồng quay về chung sống thì mâu thuẫn vợ chồng có thể giải quyết được. Ông L xác định còn thương vợ con nên không đồng ý ly hôn.

Nếu Tòa án giải quyết ly hôn thì ông L nhất trí giao con cho bà H nuôi dưỡng.

Tài sản và nợ không yêu cầu giải quyết.

Đi diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Thiết tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

- Về tố tụng: Đi với Thẩm phán, Thư ký Tòa án từ khi thụ lý đến khi xét xử thực hiện đúng theo thủ tục tố tụng. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử (HĐXX) thể hiện sự vô tư khách quan khi xét xử. Kiểm sát viên phát biểu về việc tuân theo pháp luật tố tụng của những người tham gia tố tụng.

- Về nội dung: Đề nghị chấp nhận yêu cầu của bà H về việc ly hôn ông L. Về con: bà H được quyền trực tiếp nuôi dưỡng con. Bà H không yêu cấp dưỡng nuôi con nên không xét.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa cũng như căn cứ vào kết quả tranh trụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền giải quyết vụ án: bị đơn ông Nguyễn Thanh L có nơi cư trú tại thôn H, xã T, thành phố Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận. Căn cứ vào khoản 01 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 01 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, yêu cầu khởi kiện về việc giải quyết ly hôn của bà H thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Thiết.

[2] Tại phiên tòa, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng bị đơn ông Nguyễn Thanh L vắng mặt đến lần thứ hai, do đó, căn cứ vào điểm b khoản 02 Điều 227, khoản 03 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự, HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[3] Xét yêu cầu của nguyên đơn, Hội đồng xét xử thấy rằng: Bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Thanh L đăng kí kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số 63, quyển số 1/2015, ngày 25/9/2015 của Ủy ban nhân dân xã T, thành phố T1, tỉnh T2 nên quan hệ hôn nhân của bà H và ông L là hợp pháp. Theo lời khai của các đương sự thì mâu thuẫn giữa vợ chồng là có thật và bà H, ông L hiện không chung sống với nhau hơn 5 tháng. Tòa án đã hòa giải cho đương sự để giải quyết mâu thuẫn và quay về chung sống nhưng không thành. Như vậy thực tế cuộc sống hôn nhân của bà H, ông L không còn hạnh phúc, vợ chồng không còn quan tâm, tôn trọng, tin tưởng nhau. HĐXX nhận thấy tình trạng hôn nhân của các đương sự thật sự trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, để đảm bảo quyền lợi và ổn định cuộc sống cho các bên, HĐXX chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H. Bà H được ly hôn ông L.

[4] Về con, bà H, ông L có 01 con là Nguyễn Nhã Phương U (giới tính nữ) - sinh ngày 07/3/2015. Bà H yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con. Xét thấy, các đương sự thống nhất giao con cho bà H nuôi dưỡng và hiện nay cháu U đang ở với mẹ nên HĐXX giao con bà H nuôi dưỡng là phù hợp. Về cấp dưỡng nuôi con: bà H không yêu cầu cấp dưỡng và đã được giải thích về quyền yêu cầu cấp dưỡng nhưng bà H vẫn không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Về tài sản và nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về án phí: Căn cứ vào khoản 04 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bà Nguyễn Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

* Căn cứ:

- khoản 01 Điều 28, khoản 01 Điều 35, khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 02 Điều 227, khoản 03 Điều 228 Bộ luật tố tụng Dân sự;

- Điều 51, Điều 56, Điều 57, Điều 58, Điều 81, Điều 82, Điều 83 Luật Hôn nhân và gia đình;

- Điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc Hội.

*Tuyên xử: Chấp nhận đơn khởi kiện về việc xin ly hôn, nuôi con của nguyên đơn như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Thị H được ly hôn với ông Nguyễn Thanh L.

Về con: bà Nguyễn Thị H trực tiếp nuôi dưỡng con Nguyễn Nhã Phương U (giới tính nữ) - sinh ngày 07/3/2015. Bà H không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con.

Bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Thanh L có quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung sau khi ly hôn. Bà Nguyễn Thị H không được ngăn cản ông Nguyễn Thanh L trong việc thăm nom, chăm sóc và giáo dục các con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về án phí: Bà Nguyễn Thị H phải nộp 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về việc giải quyết ly hôn. Bà H đã nộp 300.000 đồng tạm ứng án phí do Chi cục Thi hành án Dân sự Thành phố Phan Thiết thu theo biên lai số 004146 ngày 27/01/2021 nay được chuyển sang án phí.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 6,7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Quyền kháng cáo của các đương sự là 15 ngày, đối với bà Nguyễn Thị H tính từ ngày tuyên án (17/5/2021), đối với ông Nguyễn Thanh L tính từ này nhận được bản án hoặc niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

155
Bản án/Nghị quyết được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Nghị quyết đang xem

Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 38/2021/HNGĐ-ST

Số hiệu:38/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phan Thiết - Bình Thuận
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Nghị quyết Sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Nghị quyết Liên quan đến cùng nội dung
Bản án/Nghị quyết Phúc thẩm
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về
Đăng nhập
Đăng ký



  • Địa chỉ: 17 Nguyễn Gia Thiều, Phường Võ Thị Sáu, Quận 3, TP Hồ Chí Minh
    Điện thoại: (028) 7302 2286 (6 lines)
    E-mail: info@lawnet.vn
Chủ quản: Công ty THƯ VIỆN PHÁP LUẬT
Chịu trách nhiệm chính: Ông Bùi Tường Vũ - Số điện thoại liên hệ: (028) 7302 2286
P.702A , Centre Point, 106 Nguyễn Văn Trỗi, P.8, Q. Phú Nhuận, TP. HCM;