TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TÂN PHÚ ĐÔNG, TỈNH TIỀN GIANG
BẢN ÁN 102A/2024/HNGĐ-ST NGÀY 13/08/2024 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG
Trong ngày 13 tháng 8 năm 2024, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 36/2024/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2024 về tranh chấp "Ly hôn, nuôi con chung" theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 98/2024/QĐXXST -HNGĐ ngày 17 tháng 6 năm 2024 giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Lê Thị Kha L, sinh năm 1988. Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang (đơn xin vắng mặt)
- Bị đơn: Nguyễn Minh T, sinh năm 1986. Địa chỉ: Ấp T, xã T, huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang (vắng mặt không lý do)
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Quá trình tố tụng nguyên đơn chị Lê Thị Kha L trình bày:
Chị và anh T ở gần nhà nhau nên quen biết nhau từ nhỏ, vào năm 2013 được người ta mai mối thì anh chị tìm hiểu và tự nguyện tiến tới hôn nhân, có tổ chức cưới, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang vào ngày 05/5/2014. Sau khi kết hôn, anh chị sống chung với gia đình chồng. Quá trình chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, thường hay cải vã, anh T cờ bạc, không lo làm ăn, không lo cho vợ con, khoảng tháng 8/2023 chị đã về nhà cha mẹ ruột sống, anh chị đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Nay không còn tình cảm, chị yêu cầu ly hôn với anh T.
- Về con chung: Có 02 con chung tên Nguyễn Thị Trà M, sinh ngày 19/12/20XX và Nguyễn Minh Gia B, sinh ngày 10/6/20XX. Cháu M hiện đang sống chung với chị, cháu B hiện đang sống chung với anh T. Khi ly hôn, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu M và giao cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng cháu B. Chị không cấp dưỡng nuôi con và không yêu cầu anh T cấp dưỡng nuôi con.
- Về tài sản chung: Chị không yêu cầu giải quyết
- Về nợ chung: Không có.
* Quá trình tố tụng bị đơn anh Nguyễn Minh T đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng hợp lệ, nhưng anh T không đến Tòa án để tham dự phiên hòa giải, không gửi cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của mình đối với yêu cầu xin ly hôn.
* Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát:
- Về việc tuân theo pháp luật tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và người tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, không kiến nghị gì về tố tụng.
- Về việc giải quyết vụ án: Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các Điều 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Về hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Lê Thị Kha L, cho chị L được ly hôn với anh T. Về nuôi con chung: Giao cháu Nguyễn Thị Trà M, sinh ngày 19/12/20XX cho chị L tiếp tục nuôi dưỡng, giao cháu Nguyễn Minh Gia B, sinh ngày 10/6/20XX cho anh T tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: Chị L, anh T không yêu cầu nên không xem xét. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Quan hệ tranh chấp giữa các bên đương sự là tranh chấp: "Ly hôn, nuôi con" theo Điều 51 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
[2] Về thủ tục tố tụng: Nguyễn đơn chị Lê Thị Kha L có đơn xin vắng mặt, bị đơn anh Nguyễn Minh T vắng mặt không lý do dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ các văn bản tố tụng nhưng anh không thực hiện quyền và nghĩa vụ của đương sự theo quy định. Trong suốt quá trình tố tụng và tại phiên tòa anh T vắng mặt là tự từ bỏ lời trình bày của đương sự tại tòa. Việc vắng mặt của anh T không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Hội đồng xét xử căn cứ điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vụ án vắng mặt các đương sự.
[3] Về hôn nhân: Anh T và chị L kết hôn năm 2014 trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân gia đình nên là hôn nhân hợp pháp. Xét yêu cầu ly hôn của chị L, Hội đồng xét xử nhận thấy, theo lời trình bày của chị: Chị và anh T chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, tính cách không hợp nhau, thường hay cải vã, anh T cờ bạc, không lo làm ăn, không lo cho vợ con, khoảng tháng 8/2023 chị đã về nhà cha mẹ ruột sống và ly thân từ đó cho đến nay. Về phía anh T, kể từ khi Tòa án thụ lý vụ án cho đến tại phiên tòa sơ thẩm, dù đã được triệu tập hợp lệ nhưng anh vẫn không đến Tòa án và cũng không gửi văn bản trình bày ý kiến. Cho thấy, anh không có trách nhiệm với gia đình, không quan tâm hàn gắn tình cảm với chị L và mặc nhiên thừa nhận vợ chồng chung sống có xảy ra những mâu thuẫn như chị L trình bày. Do hôn nhân của anh chị đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên cần chấp nhận yêu cầu của chị L, cho chị được ly hôn với anh T là phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
[4] Về nuôi con chung: Anh chị có 02 con chung là cháu Nguyễn Thị Trà M, sinh ngày 19/12/20XX và Nguyễn Minh Gia B, sinh ngày 10/6/20XX. Cháu M hiện đang sống chung với chị, cháu B hiện đang sống chung với anh T. Xét yêu cầu của chị L, chị yêu cầu được tiếp tục nuôi dưỡng cháu M và giao cho anh T trực tiếp nuôi dưỡng cháu B. Hội đồng xét xử nhận thấy, cháu M sống cùng chị và cháu B sống cùng anh T đã ổn định về mọi mặt, phù hợp với quy định tại Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên chấp nhận. Về cấp dưỡng nuôi con: Do chị L không yêu cầu và anh T chưa có ý kiến nên Hội đồng xét xử chưa xem xét đến.
[5] Về tài sản chung và nợ chung: Đương sự không yêu cầu giải quyết nên không xem xét đến.
[6] Về án phí: Chị L yêu cầu xin ly hôn nên phải chịu án phí ly hôn theo quy định.
[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát là có căn cứ, phù hợp quy định pháp luật nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82 và 83 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
khoản 4 Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 1 và khoản 3 Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Lê Thị Kha L.
1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Lê Thị Kha L được ly hôn với anh Nguyễn Minh T.
2. Về nuôi con chung:
- Giao Nguyễn Thị Trà M, sinh ngày 19/12/20XX cho chị Lê Thị Kha L tiếp tục nuôi dưỡng. Giao cháu Nguyễn Minh Gia B, sinh ngày 10/6/20XX cho anh Nguyễn Minh T tiếp tục nuôi dưỡng. Về cấp dưỡng nuôi con: chị L, anh T chưa phải cấp dưỡng nuôi con chung.
- Chị L, anh T được quyền thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung; các thành viên gia đình không được ngăn cản.
3. Về án phí: Chị Lê Thị Kha L phải chịu tiền án phí hôn nhân và gia đình là 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng), được trừ vào số tiền 300.000 đồng (Ba trăm ngàn đồng) theo biên lai thu số 0001656 ngày 05/4/2024 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tân Phú Đông, tỉnh Tiền Giang. Chị L đã nộp xong án phí.
Trường hợp bản án được thi hành án theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.
Chị L, anh T được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc ngày được tống đạt hợp lệ bản án.
Bản án về ly hôn, nuôi con chung số 102A/2024/HNGĐ-ST
| Số hiệu: | 102A/2024/HNGĐ-ST |
| Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
| Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Tân Phú Đông - Tiền Giang |
| Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
| Ngày ban hành: | 13/08/2024 |
Vui lòng Đăng nhập để có thể tải về